Tác giả xin cám ơn Giáo sư Trần Huy Bích đã giúp nhiều tài liệu cần thiết cho bài viết này.
Hình minh họa Chinh Phụ Ngâm do tác giả, nhà văn Trùng Dương cung cấp. |
Gần
đây tôi có dịp xem video của Thúy Nga Paris trình diễn ba bài Hòn Vọng
Phu 1, 2 và 3 của Lê Thương. Sự dàn dựng cảnh trí, các màn phụ diễn đều
công phu, tạo nên một không khí chinh chiến ngày xưa, và nhất là giọng
hát của các ca sĩ đều hay, diễn tả thành công chủ đề mà mình trình diễn.
Tiếc
thay trong bài Hòn Vọng Phu 1, lời hát có sai một chữ, nhưng chữ đó lại
rất quan trọng, làm biến đổi cả không khí của bài hát mà nhạc sĩ Lê
Thương đã cố công dựng nên khi sáng tác Hòn Vọng Phu. Đó là câu nguyên
văn của tác giả :
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn
đã được ca sĩ Thế Sơn hát là :
Vui ca xong rồi đi tiến binh ngoài ngàn
Thật là một sai lầm đáng tiếc.
Chúng
ta đều biết Lê Thương thuộc vào hàng nhạc sĩ kỳ cựu của nền tân nhạc
Việt Nam, đã bắt đầu sáng tác từ những năm cuối của thập niên 1930 những
ca khúc như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu…, và từ đó tiếp tục
sáng tác và để lại cho đời một di sản âm nhạc to lớn sau khi ông từ trần
năm 1996 tại Sài Gòn, thọ 82 tuổi.
Riêng
liên khúc Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 sáng tác trong thập niên 1940 là một
tác phẩm rất quan trọng của ông, chất chứa mênh mang âm hưởng và tình
cảm dân tộc, được xem như một trường ca đầu tiên của Việt Nam. Có thể
nói không ngoa rằng nhạc điệu lẫn lời ca của liên khúc Hòn Vọng Phu đã
thấm nhuần trong tình cảm người Việt Nam một cách rộng rãi và sâu xa
nhất, có lẽ trong lịch sử của nền tân nhạc chưa dài lắm của đất nước
chúng ta chưa có tác phẩm nào đạt được vị trí ấy.
Được
xem là “trường ca” trong nền âm nhạc Việt Nam cho tới ngày nay không
nhiều. Xưa nhất là Hòn Vọng Phu gồm ba bài trong dạng chuyện kể, mà bài
Hòn Vọng Phu 1 đã được sáng tác năm 1943, các bài 2 và 3 cũng được hoàn
tất sau đó mấy năm trong thập niên 1940.
Tiếp theo là bài Trường Ca Sông Lô của Văn Cao sáng tác năm 1947, ca ngợi một chiến công trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Khoảng
giữa thập niên 1950 xuất hiện một trường ca cũng trong dạng ba ca khúc
nối tiếp nhau, đó là Hội Trùng Dương của Phạm Đình Chương, viết về ba
con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long như là hình tượng thống nhất
của nước Việt Nam.
Rồi
mãi đến đầu thập niên 1960 trường ca Con Đường Cái Quan, và giữa thập
niên 1960, trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy mới ra đời.
Đó
là những trường ca đúng nghĩa, có giá trị nghệ thuật cao, đứng vững với
thời gian cho đến nay. Nhưng nếu có ai đặt câu hỏi : trong các bài
trường ca ấy, bài nào được người dân hát nhiều nhất, nhớ nhiều nhất, phổ
biến trong dân chúng rộng rãi nhất, thì câu trả lời sẽ là : Hòn Vọng
Phu, trong đó Hòn Vọng Phu 1 thấm nhuần trong dân chúng sâu đậm nhất.
Vì
sao nhạc sĩ Lê Thương đặt tên tác phẩm của mình là Hòn Vọng Phu ? Vì ở
tỉnh Lạng Sơn giáp giới với nước Tàu có một quả núi trên đó sừng sững
một hòn đá lớn có hình thù trông giống như một người đàn bà đang ôm đứa
con, đứng nhìn ra phía xa như đang mong đợi một ai đó. Dân gian Việt Nam
đặt tên bức tượng do thiên nhiên tạo ra ấy là Hòn Vọng Phu, tức là hòn
đá có hình người đàn bà ôm con trông chờ chồng về. Có lẽ cảm xúc vì lối
đặt tên đó của dân gian hàm ý lịch sử đất nước chúng ta có nhiều chinh
chiến --với người Trung Hoa phía Bắc suốt một chiều dài của lịch sử lúc
nào cũng muốn chiếm nước ta để sáp nhập vào nước Tàu. Cái tâm thức “chờ
chồng về” từ chiến trận của người phụ nữ Việt Nam có lẽ vẫn tiềm tàng
trong tâm hồn dân tộc như một đặc tính do hoàn cảnh lịch sử mang lại,
khiến cho khi thấy một hòn đá trên núi giống hình người mẹ ôm con thì
dân chúng đặt ngay tên là Hòn Vọng Phu –Hòn Chờ Chồng. Đó là một cách
nhìn thiên nhiên mà cảm ứng với tâm trạng dài dằng dặc của dân một xứ
nhiều giặc giã, thật là ý nghĩa và cảm động.
Nhạc
sĩ Lê Thương, một nhạc sĩ thuộc thế hệ theo tân nhạc đầu tiên của Việt
Nam, chỉ nhìn hòn đá đó mà hòa nhập với một cảm thức rộng lớn của dân
tộc qua suốt một lịch sử lâu dài : lịch sử của các cuộc chiến không
ngừng để giữ nước, mà hòn đá chờ chồng là một tiêu biểu đầy cảm động
trên một mặt khác của chiến tranh. Ông đã sáng tác ba bài Hòn Vọng Phu
để nói về hào khí của cuộc xuất quân, về nỗi nhớ mong của người vợ có
chồng đi chinh chiến, cho đến ngày về của người chinh phu. Điểm đặc sắc
của ba hòn vọng phu là đều mang đầy âm hưởng cổ kính của dân tộc, về
nhạc cũng như về lời. Trải qua nhiều năm tháng, trải qua nhiều thế hệ,
trường ca Hòn Vọng Phu vẫn được trình diễn và được thưởng ngoạn như một
tác phẩm hàng đầu của dân tộc.
Đến
đây người viết xin phép được mở một dấu ngoặc để lạm bàn về một cách
diễn đạt khác về người chờ chồng Tô Thị. Ngoài Lê Thương, hình tượng
vọng phu còn được nhạc sĩ Phạm Duy nhắc đến trong trường ca Con Đường
Cái Quan của ông. Không khác Lê Thương, Phạm Duy cũng cảm nhận cái
truyền thuyết vọng phu bàng bạc trong đời sống tinh thần và tình cảm của
dân tộc Việt Nam, và nhìn nó gần như là một tín ngưỡng trong tâm thức
của dân gian : thờ phượng sự sắt son chờ đợi và sự hóa đá của người đàn
bà chờ chồng. Trong hành trình từ Bắc vào Nam, ngay đoạn đầu người lữ
khách Phạm Duy đã hát
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai
Và khuyên người chẳng tái hồi
Cho ngàn năm được sống đời… vọng phu !
Phạm
Duy đã biến sự chờ đợi gần như một tín ngưỡng, người đứng chờ mong cho
người mình thương yêu đừng về, để cho nàng… hóa đá thì nàng mới có thể
đứng mãi ngàn năm mà chờ. Đúng là Phạm Duy đã nâng sự chờ đợi thành một
thách đố của lòng kiên gan, như một phép tu để cô kết thể xác và tinh
thần biến thành một trạng thái cứng rắn vĩnh viễn : hóa đá. Đá như một
kết quả tu chứng của đạo… chờ chồng! (xin đóng ngoặc).
Quay
lại với Hòn Vọng Phu của Lê Thương, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ
sự nguyên vẹn của tác phẩm này như một viên ngọc quý, đừng để thời gian
và sự thiếu ý thức gây nên những vết trầy xước đáng tiếc.
Bài
viết này hôm nay xin đề cập đến một chữ trong bài Hòn Vọng Phu 1 có khi
bị hát sai, đó là chữ ca xang trong câu Vui ca xang rồi đi tiến binh
ngoài ngàn. Trước khi đi vào việc phân tích và tìm hiểu chữ, nghĩa,
chúng tôi mời độc giả xem kỹ lời bài Hòn Vọng Phu 1 trong bản nhạc xuất
bản năm 1955, do chính tác giả Lê Thương giữ bản quyền.
Câu
“Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” đã được in trong bản này. Các
bản Hòn Vọng Phu 1 khác được tái bản ở miền Nam trước 1975 cũng đều
giống như bản này, về nhạc cũng như về lời. Vậy chúng ta có thể xem đây
là bản gốc, in lần thứ nhất, do chính tác giả chủ trương xuất bản và giữ
bản quyền.
Khảo
sát một số mục trình diễn Hòn Vọng Phu 1 trong thời gian trước 1975 cho
đến nay, chúng tôi ghi nhận hầu hết hát đúng hai chữ “ca xang” : Tiếng
hát Thái Thanh trước 1975; ban hợp xướng Ngàn Khơi tại California; đĩa
nhạc của Asia với Hoàng Oanh, Thanh Lan, Duy Quang; Album Tuyển chọn Duy
Khánh; ca sĩ Đức Tuấn (trong nước); một ca đoàn của người Pháp trình
diễn tại Pháp v.v… Một vài nơi hát “ca xong” như Thúy Nga Paris, hoặc
“ca vang” như tôi có bắt gặp đâu đó, nhưng tương đối hiếm hoi.
Chúng
tôi nghĩ sở dĩ có trường hợp hát sai đáng tiếc như thế, là do người hát
không hiểu nghĩa chữ “ca xang” là gì, cho là do bản nhạc in sai, và
mình có nhiệm vụ tìm chữ đúng để hát. Từ “ca xang” đổi sang “ca xong”,
được lắm, dễ hiểu hơn nhiều, nhất là nó có thể gợi ý có một “party” ca
nhạc với nhiều ca nhi để tiễn vị tướng lên đường, và khi phần ca nhạc
vừa chấm dứt (ca xong) là cuộc xuất quân bắt đầu... Hoặc đổi thành “ca
vang”, một cách nói rất quen thuộc để tả tiếng hát to một cách mạnh mẽ.
Chứ xang là cái gì nghe lạ hoắc, hát lên nghe cũng chướng tai, ngượng
miệng !
Nhưng
thiết nghĩ thái độ chung của người trình diễn là phải tôn trọng nguyên
tác của tác giả, nếu có gì không hiểu thì nên tìm hiểu chứ không nên tự
đặt lời khác để hát theo ý mình. Đây là một tệ nạn cần phải tránh, nhất
là đối với những tác phẩm đã thành cổ điển.
Riêng
đối với những ai hiểu chữ “ca xang” thì thấy câu hát ấy thật hay, vì
vang lên một âm hưởng rất cổ kính, giữa khung cảnh xuất quân của một võ
tướng ngày xưa. Vậy “ca xang” là gì ?
Chúng ta cùng đi tìm chữ ấy trong sách vở cũ.
Từ "xang" có trong tiếng Việt từ rất lâu, và được ghi trong tất cả những tự điển tiếng Việt có danh tiếng từ thế kỷ 17 tới nay:
1) Tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes (1651):
Xang: agitate corpus ambulando (vừa đi vừa lắc thân thể)
2) Tự điển Việt-Latin (Dictionarium Anamitico-Latinum) của GM. Taberd (1838):
Xang: manum altè extollere (nâng tay lên cao)
3) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của (1895-96):
Xang: giang tay, đưa tay lên, múa men.
4) Tự điển Việt-Pháp (Dictionnaire annamite-français) của Jean Bonet (1900):
Xang: lever les bras, gesticuler, jouer, danser (nâng tay lên cao, làm cử chỉ, chơi đùa, nhảy múa)
5) Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931):
Xang: giang tay, giơ tay lên.
6) Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970-71):
Xang: giang tay, múa men.
7) Tự Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học (Hoàng Phê chủ biên, 2003):
Xang: đưa qua đưa lại (“chân xang qua xang lại”).
Tuy có một số tiểu tiết khác biệt nhỏ qua các thời, từ “xang” cho ta một ý niệm động: nâng tay lên cao, giang tay, múa men.
Một
điều ai cũng nhận thấy, là khi sáng tác Hòn Vọng Phu 1, Lê Thương đã
chịu ảnh hưởng rất nhiều của tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác chữ Hán
của Đặng Trần Côn, do Đoàn Thị Điểm dịch sang thơ Việt. Riêng câu hát “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” cũng có thể tìm thấy dấu vết từ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm qua Chinh Phụ Ngâm.
Nguyên câu chữ Hán trong Chinh Phụ Ngâm :
Trịch ly bôi hề, vũ Long tuyền
(Quăng chén rượu tiễn, múa kiếm Long tuyền)
Câu ấy được dịch là:
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Cuối buổi tiệc tiễn hành, người tráng sĩ ra đi ném chén rượu, cầm gươm lên múa.
Những hình ảnh “quăng chén rượu tiễn, múa gươm” đã thành những hình ảnh ước lệ để diễn tả sự hăng hái của kẻ ra đi.
Vào
thế kỷ 19, Tôn Thọ Tường, một viên quan văn, nhưng khi được chọn sang
Pháp dù chỉ để làm nhiệm vụ thông dịch, cũng hăng hái viết:
Múa gươm, quăng chén, cất mình đi
Bịn rịn đâu màng thói nữ nhi.
Sau câu:
Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn
Lê
Thương cho biết người chinh phu đã “vui ca xang” trước khi “tiến binh
ngoài ngàn.” Ông muốn nói chàng đã ca hát và múa (có thể là múa gươm, có
thể chỉ là múa chân tay không). Đó là những hình ảnh đã thành ước lệ để
chỉ sự hăng hái của kẻ ra đi.
Nếu
đổi “vui ca xang” thành “vui ca vang” hay “vui ca xong,” chúng ta sẽ vô
tình làm mất đi cái hình ảnh hào hùng đã thành ước lệ ấy.
Đến
đây thiết tưởng chúng tôi cũng đã tạm làm xong công việc bênh vực cho
một chữ bị hát sai. Một góp ý rất nhỏ, nhưng mong rằng cũng góp phần để
giữ gìn sự nguyên vẹn cho một tác phẩm giá trị của văn hóa Việt Nam.
Little Saigon ngày 29 tháng 12 năm 2021
Phạm Xuân Đài
(từ: DĐTK)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét