Quê quán tôi ở tận làng Nguyệt Biều, ngoại ô thành phố Huế, nơi nổi tiếng có những vườn thanh trà xanh um, trái ngọt.
Hơn 50 năm trên đất Việt, tôi đã sống hơn 30 năm trên đất Huế, uống
nước sông Hương hai mùa mưa nắng, ăn cơm gạo de An Cựu. Mùa hè tắm biển
Thuận An, mùa xuân ngắm hoa đào trên chùa Từ Hiếu, mùa đông vẫn dầm mưa
qua đò Thừa Phủ; chưa kể tiếng thông reo trên đồi Thiên An, tiếng ve
sầu rả rích trên các tàng cây dọc con đường vào Thành Nội. Còn nữa, màu
hồng, màu trắng của hoa sen hồ Tịnh Tâm, màu đỏ rực của phượng vĩ mùa
hè. Tôi là dân Huế chính cống, Huế chay, “mô - tê - răng - rứa “ tôi nói
không sai một chữ. Cũng có thể máu huyết tôi thấm đậm hương vị quýt
Hương Cần, thanh trà, nhãn lồng Nguyệt Biều, mít Kim Long, dâu Truồi
ngọt lịm...
Ai đã
trải qua tuổi thanh xuân ở Huế, không thể nào quên được các đoạn đường,
khúc quanh ngã rẽ: bún bò mụ Rớt, bánh bèo Tây Thượng, bánh khoái cầu
Đông Ba, chè bắp Cồn Hến, bánh ướt thịt nướng Kim Long, cơm Âm Phủ. Còn
rất nhiều thứ để nhớ; những đêm trăng với mùa hoa lài, hoa dạ lý hương,
hoa hoàng lan, nguyệt quế. Những hương vị đó luôn luôn phảng phất, lẩn
quất trong tôi làm nên nỗi nhớ trong những giấc ngủ mộng mị, mơ hồ...
Ký ức tôi thường đọng lại ở đó, nơi ngôi trường cũ, nơi có những
tường hồng nép mình bên những hàng phượng già gần trốc gốc.
Trường tôi cách trường Quốc Học bởi con đường Nguyễn Trường Tộ
nhưng nổi tiếng nhờ con đường trước mặt mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gọi là
đường Phượng. Con đường đó mỗi khi đỏ rực hoa Phượng, báo hiệu hè về là
lúc phải chia tay, bởi thế “em đi về cầu mưa ướt áo“ vì “đường phượng
bay mù không lối vào“ và “ hàng cây lá đan gần lấy nhau“ (Mưa hồng).
Người con gái mong mưa trở lại để được tựu trường dù mưa lạnh buốt
giá, dân Huế vẫn sống đẹp, sống mộng mơ, sống còn để lớn lên, sống vượt
cái nghèo, cái đói, cái ẩm thấp thiếu thốn, vượt thời gian, không gian.
Thành phố Huế nghèo nàn nhưng vẫn hùng tráng như mẹ Âu Cơ dắt 50 con về
biển, bằng cơm mem, tần tảo đưa con đến bến bờ.
Tôi đã đi qua cầu Tràng Tiền mỗi ngày:
“Cầu Tràng Tiền 6 vài 12 nhịp
Anh qua không kịp tội lắm em ơi
Chẳng thà chẳng biết nhau thôi
Biết rồi mỗi đứa mỗi nơi thêm buồn“.
Nhưng ấn tượng về Huế vẫn là những ngôi chùa. Huế có rất nhiều chùa
nhưng tôi thường thích đi chùa Báo Quốc, chùa Từ Đàm, chùa Thiên Mụ.
Huế có niềm vinh dự là chính trên mảnh đất nhỏ hẹp này có một số lượng
chùa nhiều nhất so với bất cứ một địa phương lớn nhỏ nào trên toàn lãnh
thổ Việt Nam.
Những người mệt mỏi vì cuộc
đời, đến chùa để tìm một chút tĩnh tâm, thư giãn đầu óc, những Phật tử
Huế đi xa, giờ đây có dịp về thăm quê, tìm về chùa để nhớ lại những kỷ
niệm êm đềm của một thời xa vắng.
Chùa Thiên Mụ
Được tạo dựng trên đồi Hà Khê trên một khoảnh đất bằng phẳng hình
chữ nhật diện tích khoảng 6 mẫu, cách trung tâm thành phố Huế 5 km về
phía tây thuộc địa phận xã Hương Long. Chùa được bao quanh bằng khuôn
tường xây đá hai vòng trong và ngoài.
Thiên Mụ là ngôi chùa lịch sử với kiến trúc đồ sộ và cũng là ngôi
chùa đẹp nhất Huế. Theo truyền thuyết khi xưa nơi đây ban đêm thường có
một bà lão mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện trên đồi, phán rằng “Rồi đây sẽ
có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch cho
nước Nam hùng mạnh“. Quả nhiên sau này chúa Nguyễn Hoàng - vị chúa
Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong trên đường vào Nam trấn thủ xứ Thuận Hóa và
Quảng Nam; trên đường rong ruổi Ngài bắt gặp một ngọn đồi nhô lên bên
dòng sông Hương uốn khúc, thế tựa như hình một con rồng đang quay đầu
nhìn lại. Đồi có tên là Hà Khê và chùa được chúa Nguyễn Hoàng cho khởi
lập chính thức vào năm 1601, đặt tên là Thiên Mụ.
Ngày nay chùa vẫn còn huy hoàng tráng lệ, chính nhờ công lao trùng
tu và xây dựng của Hòa Thượng Thích Đôn Hậu. Hòa Thượng đã hứng chịu
bao gian nguy trước sức phá hoại của bạo lực qua bao cuộc chiến tranh
ác liệt và nhờ đó mà Thiên Mụ đã trở lại tốt đẹp như xưa. Bây giờ đương
kim Trụ trì chùa là Hòa Thượng Thích Trí Tựu.
Đến với Thiên Mụ, du khách không khỏi cảm kích trước vẻ đẹp thiên
nhiên, trước công trình đời xưa để lại với ngọn tháp hùng vĩ đứng soi
mình trên dòng Hương Giang duyên dáng. Nơi đây qua bao thế kỷ, sớm chiều
tiếng chuông chùa ngân nga vang vọng cùng với khói hương ngào ngạt tỏa
ra giữa thinh không vắng lặng đã hấp dẫn và làm say đắm biết bao lòng
người xứ Huế. Khó ai có thể quên được chùa Thiên Mụ cùng với tiếng
chuông từ bao đời đã đi vào ca dao, để lại trong lòng người xứ Huế và
bạn bè gần xa thiết tha với Huế:
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương.
Chùa Báo Quốc
Tọa lạc trên đồi Hàm Long thuộc địa phận phường Phường Đúc, phía
đông giáp đường Phan Thanh Giản, phía tây giáp thôn Lịch Đợi, phía nam
giáp thôn Trường Giang, phía bắc là nhà ga Huế.
Chùa xây theo kiểu chữ khẩu, ở giữa sân rộng có nhiều loại chậu cảnh
và phong lan. Chùa do Hòa Thượng Giác Phong khai sáng vào cuối thế kỷ
17, chùa xưa có tên là Hàm Long Thiên Thọ Tự. Ban đầu chùa cũng chỉ là
một ngôi thảo am về sau dần dần được tu sửa và xây dựng quy mô hơn.
Năm 1940, trường Cao Đẳng Phật Học được mở tại chùa Báo Quốc do cố
Tăng Thống đại lão Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết làm Giám Đốc. Báo Quốc đã
trở thành một trung tâm đào tạo Tăng tài cho đến ngày nay. Vị Cao tăng
có công lao trong việc trùng tu tái thiết chùa Báo Quốc sau cái giai
đoạn khói lửa gần đây là Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Ngài vừa là Giám đốc
Phật học đường vừa là Trụ trì chùa Báo Quốc.
Báo Quốc là một ngôi chùa cổ ở vị trí trung tâm thành phố, được
nhiều người biết đến. Từ nhiều năm nay, chùa đã hấp dẫn và thu hút được
đông đảo du khách gần xa, trở thành một trung tâm du lịch của thành phố
Huế. Đương kim Trụ trì là Hòa Thượng Thích Đức Thanh.
Chùa Từ Đàm
Tọa lạc trên một khoảng đất cao rộng, bằng phẳng thuộc địa phận
phường Trường An cách trung tâm thành phố Huế 2 km về hướng nam. Mặt
chùa hướng đông nam, trước có núi Kim Phụng, bên trái có chùa Linh Quang
và nhà thờ cụ Phan Bội Châu, phía sau có chùa Thiên Minh. Đặc biệt
trong sân chùa có cây Bồ Đề quanh năm tỏa bóng mát. Đây là cây Bồ Đề
được chiết ra từ cây Bồ Đề nơi Phật đắc đạo do bà Karpeies, Hội trưởng
Hội Phật học Pháp thỉnh từ Ấn Độ qua tặng Việt Nam và được trồng vào năm
1936.
Trong chánh điện có pho tượng lớn, Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sen. Chùa Từ Đàm thờ độc tôn, cách
bài trí và thờ tự trong điện có phần đơn giản so với các ngôi chùa khác ở
Huế.
Chùa Từ Đàm
do Hòa Thượng Minh Hoằng Tử Dung sáng lập. Mặc dù không phải là ngôi
chùa vào loại cổ nhất Việt Nam nhưng Từ Đàm đã được nhiều người ở khắp
đất nước biết đến do vai trò quan trọng của chùa trong công cuộc chấn
hưng và phát triển của Phật Giáo Việt Nam và các cuộc đấu tranh vì hòa
bình và tự do tín ngưỡng. Chùa còn là trụ sở của Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam thuộc tỉnh Bình Trị Thiên do Hòa Thượng Thích Thiện Siêu trụ trì
ngày trước. Ngày nay Trụ trì là Hòa Thượng Thích Hải Ấn.
Đối với mỗi chúng ta, nhất là người con xứ Huế thì Huế đâu chỉ là
địa danh lịch sử, đâu chỉ là những con đường, những dòng sông, đâu chỉ
là những Kim Long, Đại Lược, Bao Vinh, Vỹ Dạ, Gia Hội, Kẻ Vạn... mà còn
là những nhịp cầu, hàng phượng, bến đò, góc thành cổ, công viên; những
gì thật thân thương, mộc mạc qua những xóm nghèo; những gánh bún bò buổi
sáng, những tiếng rao hàng đặc sệt Huế, những tà áo trắng buổi tan
trường...
Huế vẫn còn trong hình bóng của
một cô chèo đò trên sông Hương, tối tối chở một vì sao mượn từ trời sao
xứ Huế và chở cả tiếng hò của cô.
Thuyền
xuôi dòng. Cái tĩnh lặng nên thơ giữa trời nước mênh mông êm ả ngự trị
chỉ còn ta với ta. Chỉ có Huế ngày nào có được giây phút tuyệt vời lặng
lẽ mênh mang. Xa Huế đã bao lâu, chuyển đổi đến bao miền, hoa lau cũng
nhiều lần trở lại với mắt nhìn ở một chốn nào đó, nhưng không một lần
tìm thấy lại nét thủy mạc của bờ lau bên dòng nước biếc của những ngày
áo trắng lang thang. Nỗi nhớ quê vì vậy cứ canh cánh bên lòng!
Tất cả phong cảnh Huế, tình cảm Huế sau bao thay đổi của cuộc đời,
có thể phần nào Huế và tâm tình không còn trọn vẹn như xưa nhưng mãi mãi
người đi xa Huế vẫn luôn luôn hướng về quê xưa với tình Huế vời vợi
trong lòng!
Số
phận đã đưa tôi xa Huế, càng ngày càng thấy ngày về mơ hồ xa ngút... và
lòng luôn cảm thấy u hoài vì mãi hơn mấy chục năm rồi, gia tài của Mẹ để
lại cho con vẫn chỉ là một nước VIỆT buồn!!
Nguyên Hạnh
(Tác giả gởi)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét