I
Chiều
nào khi mặt trời sắp chôn dưới chân núi chú Sáu cũng mang hai con bò
phân tán ra hai nơi góc vườn, chú kéo cho mỗi con một mớ rơm để nhai qua
đêm, chú nói như thế này để cà nông bắn rủi chết thì chết từng con một,
khổ ải quá, người còn có thể chui hầm rúc hố, đằng này bò nó không thể
nằm mãi dưới hầm như người, mà dù bò nó chịu nằm hầm mình cũng chẳng có
bao cát dụng cụ đâu mà làm cho xuể một cái hầm.
Chiến tranh tràn đến xóm chú Sáu – có thể gọi chú là lão già hay
con bò già cũng được, vì đời chú không học hành, không biết phố thị,
đời chú dính với luống cày, mọc lên từ ruộng nương đầy phân bón và bùn
lầy – chiến tranh thực sự có ở xóm chú từ năm nay, kể từ đêm Sáu Vu về
chặt đầu cha. Sáu Vu là con Hương Đằng, nó bỏ nhà ra đi từ mười hai năm
nay. Đúng mười hai giờ đêm một đêm năm trước hắn về làng tập họp dân
chúng – mấy anh dân vệ hôm đó đã về ngủ trên quận – việc đầu tiên hắn
làm chánh án tòa án nhân dân xử cha, lão Hương Đằng nay là đại diện xã.
Dưới ánh đuốc bập bùng, dân làng có người đứng ra xin cho Hương Đằng,
rồi chính Hương Đằng cũng nói với Sáu Vu tao là cha của mày, con ạ tao
là cha, mày không nỡ giết cha. Sáu Vu trả lời :
- Ông là cha riêng tôi chứ không phải cha của cả dân tộc này,
ông chết một mình để cả dân tộc này sống, ông không đáng được gọi rằng
chết nữa, ông, chính ông bị đền tội, ông bị loại trừ, cái chết là danh
từ dành riêng cho các chiến sĩ, các con của nòi giống , ông ạ, tôi không
còn cha, không có cha nào nữa ngoài một người cha là cuộc cách mạng vĩ
đại trường cửu này. Lão Hương Đằng nhổ một bãi nước bọt vào mặt Sáu Vu
nói mày là thằng phản quốc, thằng bán linh hồn, mày hãy giết tao đi. Thế
là một lưỡi dao phập xuống. Mọi người lúc đó, dưới ánh lửa ma quái
không ai thấy Hương Đằng bị chặt đầu, họ thấy chính lát dao đang đi
ngang cổ họ, họ cúi xuống nhìn bãi đất lạnh run rẩy.
<!> Máu nơi cổ lão Hương Đằng chưa kịp đông lại thì ngay lúc đó có
hàng tràng cà nông bắn tới tấp vào đám du kích quân, lửa nhá trên đầu
họ, mảnh đạn bay lanh canh trên các mái ngói, chó thôi sủa, người thôi
tố cáo người. Sáng hôm sau khi chôn cất, xác Hương Đằng bị một nhát mã
tấu gẫy gọn và nhiều mãnh đại bác nho nhỏ.
Chính đêm đó chú Sáu mất con bò thứ nhất, con bò đực hùng vĩ.
Nay chỉ còn có hai con, con bò cái ốm o, và một con bò con nhác súng.
Mỗi lần có súng bắn là con bò con nhảy cùng vườn. Chú Sáu phải cột nó
vào một gốc cây lớn – gốc cây trơ trụi vì thuốc khai quang, nếu có một
thứ gì làm tiêu tan được gốc cây khô héo này thì người ta đã tưới xuống
rồi.
Chú Sáu cột giây thừng vào cái cổ trầy trụa và chân con bò nhỏ,
con bò dậm dậm chân ra chiều bất mãn, chú Sáu vuốt ve nó, đẩy nó sát vào
gốc cây, chú ngó quanh quất xem chừng nếu một quả đạn bay tới cái gốc
cây có che mảnh cho con bò không. Chú buồn rầu đi về phía con bò mẹ, bầu
trời đầy tro xám, một áng mây đen bay là đà về hướng biển, con bò mẹ
gầy gò như một bà già suốt đời bị hành hạ vì sinh đẻ và chồng con. Chú
nhìn con bò rồi cúi trộn mớ rơm, bỏ thêm một ít cỏ tươi :
khi kiệt sức rồi thì dù được nuôi bằng phó mát hay cam nho mày cũng trơ xương con ạ. Lão đi vào nhà.
Có tiếng con Miệng :
"Cậu Ban nói cái hầm nhà mình cà nông thổi trúng thì sập ngay.
Cậu nói cái hầm nhà mình chật chội, mùa mưa nước lẹp xẹp đến chó nó cũng
không muốn nằm nữa là người. Hèn gì mấy con bò nhà này nó không chịu
ngủ dưới hầm".
Chú Sáu :
"Ôi, cái thằng mắc dịch đó hắn ghẹo mày đó. Ai đời làm hầm để
rồi người với bò chó cùng ngủ. Chưa có con chó nào chết vì cà nông hay
pháo kích chứ người thì nhiều rồi đó. Mày bảo thằng Ban câm cái họng ôn
dịch hắn lại. Bữa nào thằng Đích về rồi hắn biết tay.... ".
Chú Sáu nhớ đến người con trai chú. Thằng Đích. Đích năm nay hai
mươi hai tuổi, đi quân dịch đóng lon binh nhì, có hai huy chương một
sao bạc, một đồng, Đích nói lính Biệt động quân tệ chi đi nữa cũng có
huy chương đeo đỏ ngực. Con Miệng, em kế thằng Đích.
Chú Sáu vào nhà nằm ngửa trên phản, hai tay dang, mắt nhìn lên
trần nhà loang lổ miểng đạn, cái trần nhà hư nát nhưng không ai tính
chuyện sửa sang lại trong thời buổi này , chú nhớ đến thằng Đích ngày
trước cất tiếng khóc oe oe trong góc này, ngày sinh con Miệng trời mưa
lớn, ngã trưa người vú đứng ở hè cửa nói chị sinh con gái, thế là mai
sau anh vừa có dâu vừa có rể, "dâu hiền con gái, rể thảo con trai" anh
lo gì , chú Sáu nhớ đến người vợ chú ngày trước hay ngồi bắt chí và chải
tóc nơi cái đà cửa, gió nồm thổi mán mác, những đêm trăng trải ngàn
ngàn vợ chú vẫn ngồi nơi đó sàng gạo hay làm việc vặt vạnh , ngày xưa
ngày xưa, chuyện gì êm đềm cũng chuyện của ngày xưa. Giờ đây chú thấy
quanh mình trơ trụi, vợ đã chết, thằng Đích đi xa, nó không chịu lấy vợ,
con Miệng đã lớn, nó có thể bị xỏ mũi dắt đi nay mai thời buổi này con
trai không muốn lấy vợ nhưng con gái ưa có chồng , con trai nói có vợ
lấy gì ăn, lấy vợ để chết đói à , con gái nói lấy chồng cho xong để
hưởng mùi đời , đời gì rắc rối. Chú Sáu nằm trong bóng đêm âm thầm nhớ
tha thiết, nhớ dại dột con bò đực vĩ đại của chú. Người tu hành có đức
Chúa, người đi giải phóng có lưỡi mã tấu, anh lính có cây súng, và chú
có con bò đực. Chỉ với nó thôi, cả vũ trụ chú ở đó. Con bò chết lòng chú
hiu quạnh, không ai đi trước chú nơi luống cày, không ai chịu vác dùm
cái ách, kéo dùm cái bừa, ỉa dùm cho chú cục phân bón lúa, tất cả thua
con bò. Nay nó đã chết.
Chú nhắm mắt thấy máu chảy ra từ thân từ con bò thân yêu. Chú như ngã xuống và trôi miên man trong đó, giòng máu thơm ngát :
máu không phản bội, máu ngoài các chính thể loài người.
Tiếng con Miệng :
"Đêm nay tui không ngủ trong hầm".
Chú Sáu kinh ngạc :
"Mày điên à, muốn chết à".
"Tui không thể ngủ hầm, khó chịu quá, thà chết ngoài trời cho thanh thản".
"À, tao biết mày rồi. Mày mê cái thằng Ngọc hả. Đừng con ạ. Dù
sao mình cũng con nhà gia thế đừng có cái thói trên bộc trong dâu".
"Trên bộc trong dâu là gì ?".
"Là gì thì tao không tài giảng nghĩa, nhưng tao biết người ta ám
chỉ những đứa con trai con gái hư. Con ạ, nếu mày muốn thì tao gả ngay.
Thời buổi này tùy mày lựa chọn. Nhưng tao nói với mày, con ạ, đừng có
dại dột ngoài rơm ngoài ra. ban đêm mấy ổng bắn toi mạng. Mày không nhớ
con Ngó với thằng Phả chết trần trụi nhơ nhớp ngoài vườn chuối ngày
trước à".
Con Miệng ngồi khóc. Nó nói cha không hiểu tui chi hết, cha làm
tui nhục nhã. Sao trên trời một vài cái lấm tấm. Trời tối như mực. Chú
Sáu nói thôi trải chiếu dưới hầm mà ngủ đi cho rồi.... đó, có tiếng súng
đó.
Dưới căn hầm này chỉ có hai cha con, một cha trên năm mươi, một
con dưới hai mươi, và một con chó đen. Con chó thường ngủ ở miệng hầm –
loài vật hình như không con nào thích nghi với loại hầm tránh bom đạn
này để đánh hơi, thỉnh thoảng nó chạy âm thầm ra ngoài vườn. Tuyệt nhiên
nó không sủa. Từ lâu nay con chó mực trở nên thin thít ngay cả những
đêm có trăng, nó thấy ngứa cổ lạ lùng khi nhìn những đọt lá lay lay với
cái bóng, nó câm nín với những cái bóng đen di động như một thứ ma quái.
Ngủ hoài dưới hầm chỉ có hai cha con, mùa đông con mưa ngùi ngụt
bên ngoài, nước chảy róc rách trong hầm, mùa hè oi ả với từng đợt gió
khô khan. Những đêm như thế chú Sáu thường trở giấc với cái quạt mo trên
tay. Dưới ánh đèn dầu mù mờ chú thấy con Miệng – con gái chú – ngủ có
khi hở hang, nằm ngửa mình hai tay dang, hai đùi mươn mướt nóng hổi dưới
lớp quần đen láng, con Miệng ngủ mê mẩn sau một ngày làm lụng. Hai
giống người lạ hoắc ngủ với nhau trong căn hầm oan khiên này lẽ ra cái
thân thể kia phải làm cho chú động tình, sẽ làm thui chột cái lương tri
một người. Nhưng với chú, chú đúng là một người cha. Chú ngồi thẫn thờ
dưới ánh đèn thương xót cho con gái mình, chú lấy tấm chăn đắp lên phần
trống vắng cho con, chú muốn khóc, chú thương vợ. Chú nghĩ một mình :
"Loài người đến lúc ăn lông ở lỗ trở lại đây. Loài người đã bỏ
áo quần luân lý vào núi vào hang mà ở rồi đây. Nhưng làm sao con người
mới khỏi bị bóng tối đè nặng như súc vật".
Chú lại nhìn con, nhưng chưa bao giờ chú dám nhìn thẳng vào cái phần thiêng liêng của người đàn bà, nơi Miệng.
Đêm nay, cũng vẫn với cái quạt mo chú vặn thật nhỏ ngọn đèn, vì
sợ ánh sáng lộ lên bên ngoài, chú tựa lưng vào thành đất lạnh ngắt, súng
một lúc nổ một nhiều. Chú nhắm mắt để khỏi liên tưởng đến Sáu Vu, đến
những ánh lửa bập bùng xung đột, những tràng súng ào ạt bay ra từ thị
trấn. Từ ngáy Sáu Vu về làng đến nay làng trở nên trơ trụi, những cuộc
hành quân của quân đội thường xảy đến, chiều chiều máy bay lượn trên xóm
chú thả trái khói. Từ ngày Sáu Vu về làng, dân làng cũng bỏ làng đi,
những người ở lại phải ra ngoài bãi cát làm hầm mà trú, vì ở trong này
phải đi đào đàng, mà đi đào đàng thì có khi không về, có khi sáng mai
phải đi đắp lại.
Bây giờ súng nổ quá lớn, trời tối mịt mùng, con mực từ miệng hầm
vụt chạy xuống, nó im lìm thu mình trong góc, bên cạnh con Miệng. Chú
Sáu lê dần đến phía miệng hầm, lo lắng cho hai con bò ở hai góc vườn.
Mấy đám lúa mới bị nát nhưng chú ít tiếc thương, chú chỉ thương xót hai
con bò còn lại.
Hình như hoa màu ngoài kia không có hơi thở như hai con bò,
không có máu và không có hai con mắt u uẩn tội nghiệp của mỗi con bò.
Súng nổ thật đều, thật gần, chú Sáu nhắm mắt vọng tưởng trong
tuyệt vọng, cũng như máu chảy trên những đọt lúa non, như người ta tuyên
dương trên những xác chết, uống rượu mừng giữa một quê hương cháy, chú
tuyệt vọng và giấc mơ lại đầy trong bóng tối. Chú Sáu thấy con bò cái
quằn quại sinh con, con bò con khỏe mạnh, làn da óng mướt, hai mắt hướng
về đám cỏ non kêu tiếng kêu đầu đời. Chú thấy hai mẹ con con bò cười
với nhau, đi về hướng mặt trời ấm áp, mỗi sáng sáng chúng nó dừng trên
bờ sông, con sông thênh thang đầm đầm giữa thung lũng. Chú thấy căn vườn
chú cây trái xanh tươi, những ngôi mộ đã cất cánh bay ra ngoài nghĩa
địa, những linh hồn đã thực sự về trời, không oan hồn nào còn đi lang
bang quanh quẩn.... một tiếng nổ ngay trên nóc hầm, chú sực tỉnh, ngọn
đèn dầu vụt tắt, con chó mực sủa lên một tiếng nghẹn ngào rồi im bặt,
như có ai đập lên đầu nó cái cán dao bất ngờ , trong bóng tối chú Sáu sờ
mình mẩy mình xem có trơn ướt máu không đấy là cái thói quen rờ rẫm lên
thân thể mình để tìm vết máu vết thương của đám dân quê từ mấy mươi năm
này , khi mới bị thương không ai hay biết mình bị thương – con Miệng
hoảng hồn chồm dậy, nó ôm cha nó, cái ngực nóng hổi đầy thịt cứng ngắt
áp vào lưng chú Sáu, mấy sợi tóc Miệng tỏa xuống vai chú, nó thều thào :
chết rồi cha ơi, tôi bị thương rồi, máu đây. Con Miệng mò bàn
tay cha nó đưa về vết thương của mình y như chúng ta hãnh diện chỉ cho
người mù sờ một cái huy chương nơi ngực. Máu đây. Sau ót tôi đây. Chú
Sáu sờ sau sống lưng con gái, bàn tay chú nhơm nhớp một thứ nước màu,
nóng và thơm.
Buổi sáng trong khu vườn tẻ lạnh con bò cái chết nơi góc vườn,
cái đầu nó bay qua phía bên kia hồ nước cạn, cái đầu với hai con mắt
không bao giờ nhắm :
hai con mắt xanh lè nhìn về phía chú Sáu. Hai con mắt này hoàn
toàn khác hai con mắt đứng dưới luống cày trưa nắng nhìn chú đến mở tháo
cái ách trên vai. Hai con mắt này là con mắt tự do, hai con mắt đã ra
ngoài sự sống, đã thôi làm nô lệ cho người.
Con Miệng chết dưới hầm. Và con chó thì không ai chú ý đến nó
nữa. Nó phải chết. Miệng bị một miểng nhỏ ghim vào sau ót nhưng nó chết
liền. Cái chết như đùa chơi. Một đi lộn đường. Thay vì cái chết đi thẳng
đến chú Sáu nó lại quanh qua con Miệng.
Vết thương quá kín đáo. Miệng chết êm đềm như nằm đợi người tình
trong giấc ngủ ngon. Chú Sáu cất tiếng khóc khô khan giản dị, tiếng
khóc của một lão đàn ông tưởng vô duyên nhưng thực ra nó làm đau lòng
người hơn bất cứ lời ai điếu nào.
Buổi trưa con bò được đưa đi khắp xóm, thịt nó được vào bụng
người với la biere . Con Miệng được tẩm liệm sạch sẽ cho vào quan tài.
Gái quê chết thật khiêm tốn. Ngoài áo quan thô sơ với mấy cây lạp lung
linh không có vòng hoa tấu nhạc gì, không có người tình nào mê sảng bên
quan tài. Chỉ có Ngọc.
Ngọc nó thương Miệng lắm nhưng anh ta âm thầm vác cuốc ra đào cái lỗ chôn con chó và đào cái huyệt thật đẹp dành cho Miệng.
Ngọc nói :
- Tao chưa làm gì được con Miệng, tội nghiệp nó đã chết rồi....
II
Bốn
tháng sau khi con gái chết chú Sáu thực sự thấy không thể sống trong
cái xóm quê quá quắt kỳ ảo này. Trời mùa hè nắng cao. Mỗi ngày chú Sáu
dắt con bò con ra đồng, ngồi bờ ruộng nhìn cánh đồng khô vàng, con bò
nhỏ như con dê con một mình nó phải ăn cho hết cỏ trên cánh đồng này.
Không còn đàn bò lũ trâu nào tranh giành với nó. Chiều chiều chú Sáu đến
ngồi trên mộ con, dấu xích xe tăng chạy tròn quanh mộ như những vòng
hoa lớn hay như một thứ ranh giới đánh dấu giữa phía này điêu tàn và bên
kia hư vô. Chú ngồi đấy với gió rào rạt, từng đám bụi hồng che kín mặt
trời, xa là đền lũy, là thị trấn lố nhố những bờ tường trắng hoang vu.
Gần đây Sáu Vu lại hay về làng. Người ta thường ngủ mơ thấy Sáu
Vu gõ cửa, nghe Sáu Vu ra lệnh, Sáu Vu râu dài tóc rậm như Ô Mã Nhi thuở
nảo. Người ta thường thét lên, thức giấc giữa đêm khuya, ôm lấy linh
hồn quằn quại đau đớn của mình khóc ngất. Ngay lúc đó thì từng tràng đạn
từ thị trấn cũng đổ về đều đặn, như chùm trái chín rơi giữa đêm minh
man.
Dân làng đã bỏ xóm đến ở nơi những gò cao, ngoài bãi đất trống
để tránh Sáu Vu và tránh chùm trái chín rơi vu vơ trên nỗi chết. Cảnh
vật khô khan tiêu điều. Chú Sáu dựng nhà trên bãi cỏ. Ban đêm vẫn ngủ
dưới hầm. Chú van xin con bò con phải cùng ngủ với chú. Bây giờ con bò
con đã biết điều, chịu khó ngủ chung với người.
Một ngày nọ, sau cuộc hành quân, chú dắt con bò con đi sau đoàn
quân trở về thành phố. Hoàng hôn, đoàn xe thiết giáp chạy vội về căn cứ,
chú Sáu và con bò đứng dưới ngã ba nhìn ánh đèn phố thị.
Đ.M., ở thành phố có khác. Chú Sáu nghĩ như thế rồi chú buồn ngay. Vì ở đây không có hầm cho con bò con ngủ.
"Không có hầm cho bò, không có cỏ non! ". Chú Sáu cột con bò
dưới cây trụ điện. Chú đau lòng vì dưới ánh sáng này nhiều muỗi quá. Chú
thức và đuổi muỗi cho con bò. Nửa đêm nghe có súng nổ thật gần. Chú Sáu
giật mình, ủa, trong này cũng có Sáu Vu à.
Đám dân thành phố qua lại thấy cảnh gai mắt, chúng nó nói :
- Đ.M., coi thằng khùng. Một thằng khùng quên cả mệt nhọc quên cả thân thể đời sống nó. Nó chỉ lo cho bò.
- Con bò y như là Tổ Quốc hay lẽ sống của nó đấy. Sáng hôm sau,
chú Sáu được đưa vào trại định cư. Chú có nhà ở, được lãnh thực phẩm, áo
quần.
Nhưng hình như chú chưa cần những thứ đó. Việc đầu tiên chú tìm
cỏ cho con bò, dắt nó ra kinh tắm rửa, kinh nước đục không bao giờ soi
thấy bóng người dưới đó. Lần ông Quận trưởng đến thăm trại định cư, ông
ta hỏi han chú Sáu. Chú đưa mắt về hướng con bò, cố ý cho ông Quận nhìn
thấy con vật yêu thương. Nhưng ông Quận không hiểu điều đó. Chú Sáu buồn
rầu, không cần ai hiểu chú nhưng người ta phải biết đến tình cảnh con
bò, súc vật ở đây bị tận diệt rồi đó, mai này ai đi trước luống cày, mai
này phải có chúng nó để phân biệt giữa một công dân và loài nô lệ.
Nhưng ông Quận mang sữa bột, thuốc men, áo quần của Hoa Kỳ đến cho chú
Sáu, không ai cho lại chú cái xóm thân yêu, mái nhà yên tĩnh, không ai
mang trả lại chú cánh đồng tự do hiền hòa.
Con bò con mỗi ngày một gầy gò, nó thật vô duyên trơ trẽn giữa
thành phố. Chú Sáu quanh quẩn với ngày tháng không công ăn việc làm. Mùa
mưa tới, chú Sáu nằm trong đêm mơ màng, nhớ từng đám mạ non, từng chiếc
gàu nụt lạc, nhớ từng sáng sáng năm xưa với lũ bò ra đồng khi sương còn
trắng mờ trước mặt.
Nằm trong thành phố với người xa lạ, chú Sáu mới thấy cả cái
cày, cái cuốc cũng có hơi thở, có linh hồn. Cày cuốc đã hơi thở dưới căn
nhà cháy và linh hồn chúng nó về rộn ràng đâu đây, làm chú thao thức
nửa đêm, ngây ngất từ lúc trăng về sáng, lòng dạ như sắt se khi chợt
nhìn một chòm sao sáng rỡ trên trời lúc nửa khuya. Chú nhớ vợ và con,
những người này đã quay cuồng với đất. Ôi, tất cả đã băng băng giã từ
chú, tất cả đã một đường đi tới phía bên kia thời gian, chỉ còn mỗi chú,
chú làm một loại cây không lá, một loại cây đầy gai nơi vùng bạch hóa.
Trong thành phố cũng có Sáu Vu à. Chú Sáu đêm mộng thấy Ô Mã Nhi
vội vã chạy từ rừng ra đồng trống, vội vã ném những trái khô vào họng
súng. Những trái khô bay về, nổ tan tác trong bệnh viện, nổ ngay giữa
trường học, nổ trên đầu giấc ngủ, nổ biến giấc ngủ thành cái chết nghìn
đời. Ô Mã Nhi, Ô Mã Nhi. Người đã mang ác mộng từ đồng quê vào thị trấn.
Và chú Sáu khóc thét lên khi trái đạn nổ ngay trên đầu con bò con của
chú. Nó chết khác cha mẹ nó. Nó chết thê thảm hơn. Chiến tranh càng lâu
năm, vũ khí càng tiến bộ, cái chết càng ghê tởm tan tác hơn.
Con bò đực hùng vĩ ngày xưa chết yên lặng trong chuồng vì một
miểng đạn gọn ghẽ. Con bò cái lam lũ khi chết cái đầu bay qua bên kia hồ
cạn, nhưng phần còn lại người ta có thể ăn thịt được. Con bò con này
không ai nhặt được thịt nó. Nó tan tành dưới sức tàn phá của một trái
ly. Nó lộn với thịt người. Lộn với óc người. Nó dính trên cỏ cây. Nó
thành nước. Một thứ nước trộn lẫn giữa máu và thuốc súng.
Chú Sáu ngồi bên miệng cái hố bề sâu hơn thước bề ngang vài
thước. Nơi này con bò con chiều hôm qua còn nhai cỏ, còn dẫm chân trên
lãnh thổ yêu kiều. Chú Sáu ngó quanh quất, ngửi trong không gian cái hơi
con bò con, máu xương đã thành ánh sáng, đã thành gió động cỡn đâu đây.
Chú chưởi thề :
- Đ.M. thế thì tao còn gì.
Chú nhất định trở về cái xóm quê của chú. Nơi tuổi trẻ chú mặc
trên mình cái áo rách vai, cuốc đất trồng khoai. Ngày nay trên mình chú
cũng cái áo rách vai. Nhưng áo này là cái áo viện trợ chú lãnh được trên
quận. Những cái chú có người ta đã giết đi. Những cái chú có người ta
đã cướp.
Ngày chú lên đường trở về xóm quê một người trong trại định cư hỏi chú :
- Anh định đi Sài-gòn làm ăn đấy à ?
Chú Sáu ngơ ngác. Chú quên mất trên quê hương chú còn có Sài-gòn, chú trả lời :
- Không.... tôi về quê.
Người ta kinh ngạc :
- Anh điên à, vùng của anh là một vùng tử địa, vùng oanh kích tự do. Cái đầu anh cứng lắm à.
- Oanh kích tự do là thế nào ?
Mọi người nhìn nhau cười. Họ cần thấy phải giải nghĩa cho tên Mohican :
- Là ai muốn ném vào đó, muốn bắn vào đó cái giống gì cũng được. Coi như chỗ không người.
Chú Sáu thấy tức tối vô cùng. Mộ vợ con chú ở đó. Ông bà tổ tiên
chú nằm dưới đó. Mồ mả không phải là người. Nhưng người không được xúc
phạm quá đỗi đến thế.
Rồi chú ra về.
Ra ngoài đồng trống chú đi nghêu ngao. Nhớ thuở trước chú dắt
con bò chạy lon ton theo sau đoàn xe thiết giáp. Cả cuộc đời lao xao
trên nỗi lo lắng. Bây giờ tất cả là tay không. Chú đưa tay sờ lên vai áo
rách của mình. Chú tiến qua một gò mả, khu rừng hoang lạnh phía trước,
quê nhà chú cách đó không xa, chú men theo những hố bom nằm cách khoảng
nhau đều đặn.... bỗng chú thấy Ô Mã Nhi.
Trời đã ngả chiều, nắng quái đọng ngùi ngùi trong cánh rừng khô,
vài áng mây đen bay vùn vụt, thay hình đổi dạng khôn lường. Ô Mã Nhi
chận chú lại. Hỏi :
- A, Lão Sáu, tên tề điệp, mày hãy dừng lại nhận bản án tử hình.
Hai người đi theo Ô Mã Nhi đã lanh lẹ rút hai con dao đứng cạnh chú Sáu. Ô Mã Nhi rút lẹ trong túi ra một mẩu giấy, đọc ngay :
"Nguyễn văn Liên từ một năm nay đã tự ý vào thành làm gián điệp
tay sai cho Mỹ ngụy. Nguyễn văn Liên, tên tề điệp bẩn thỉu đã phản bội
dân tộc. Nhân dân và đảng đã lên án tử hình tên Nguyễn văn Liên. Ngoài
ra tên Nguyễn văn Liên còn là cha đẻ của tên Nguyễn văn Đích. Nguyễn văn
Đích nay cũng bị lên án tử hình".
Hai con mắt chú Sáu trợn xanh lè như hai con mắt con bò cái với cái đầu hoang vu trên bờ ao.
Hai con mắt đó nhìn về Ô Mã Nhi không kịp nói lời nào. Chú chết
tức tốc, quằn quại vì một bản án quái gở bất thành văn tự đó. Khi ném
xác chú xuống đường mương đã khô nước, một du kích quân quay sang nói
với Sáu Vu:
- Đồng chí giỏi quá, làm sao đồng chí có ngay được bản cáo trạng ?
Ô Mã Nhi trả lời :
- Đây này, tôi lấy tờ giấy thu lúa để đọc trước mặt hắn. Với tụi
nó đứa nào cũng đáng chết. Anh có thể nhặt một mẫu giấy bẩn, đọc trước
mặt nó rồi chém nó ngay đi cũng được, cần gì phải có bản cáo trạng.
Ô Mã Nhi nhét vội mảnh giấy vào túi áo rồi cùng hai đồ đệ tiến
vào khu rừng khô trước mặt. Họ tan biến trong hoàng hôn đã đầy bóng tối.
III
-
Đ.M. tao đi lính hai ba năm mới được đổi về đây. Tao chưa đi phép đã đi
hành quân rồi. Đích vừa lau cây súng vừa nói chuyện với một người bạn.
Người bạn hỏi :
- Quê mày ở đâu ?
- Cách đây hơn mười cây số, trong quê.
- Biết đâu ngày mai lại vào đó, mày tha hồ thăm.
Người bạn của Đích bỗng ngậm ngùi :
- Mà ở đó còn gì để thăm.
- Anh biết quê tôi à.
- Biết chứ. Quanh đây từ mười cây số trở lên đều là vùng oanh kích tự do, trừ mấy xóm nhà trên đường về Sài-gòn.
Như một cái màn vừa kéo ra, Đích chợt thấy phần hậu trường thăm thẳm bên trong :
- Đ.M. hèn chi tao gửi thơ năm sáu tháng trời không thấy ai trả lời. Không chừng....
Người bạn buông xuôi :
- Không chừng con mẹ gì. Nhà tao chết ráo hết rồi.
- Ở ngoài quê à ?
- Không, trong thành phố này. ly.
Buổi sáng hôm sau đoàn quân tiến về quê của Đích. Bước chân xuống điểm xuất phát, Đích ngó mông về phía làng :
một vùng trơ trụi, cây khô, đá khô, và vạn vật vàng khô. Một vài tiếng súng nổ lẻ tẻ.
Một vài nhà cháy nằm rải rác. Buổi trưa Đích cùng toán quân dừng trên một gò cao nấu cơm ăn. Anh dõi mắt về cái xóm phía trước :
nơi tuổi nhỏ anh chăn bầy bò ba con. Có lần Đích đã nằm trên mô
đất đầy cỏ xanh, đắp cái nón lá trên mặt, anh ngủ vùi, bầy bò đi rong
trên cánh đồng ăn cỏ suốt ngày. Có lần trên cánh đồng này Đích lắng nghe
tiếng nước chảy róc rách, tiếng cá đớp lúa, tiếng rì rào xa vắng của
ngàn bông lúa vừa đơm trên đồng. Đích nhớ ngày con bò mẹ sanh con, trời
tối, cha Đích cầm cây đèn ánh sáng chập choạng, mẹ Đích ẵm con bò nghé
đỏ hỏn như một đứa bé. Bà mẹ mừng, nói con bò đẻ ra tiền bạc cho tui
đây. Bò con vừa được sinh buổi tối, sáng hôm sau ra đồng nó đã vượt
mương và bơi ngay. Bò đã hơn người, nó không phải tập bơi lội. Đích nhớ
những đêm trăng lên cao đầu ngõ, ánh sáng dịu dàng chảy trên đám đất
vàng, cả gia đình anh ngồi quây quần ăn cơm ngoài sân tiếng gà lục đục
phía sau, tiếng chim đêm ấm áp vô cùng trên những cành tối vu vơ. Mấy
năm rồi Đích mới trở lại, súng trên tay, đạn lên nòng, anh đi về tuổi
nhỏ, anh tiến vào vùng kỷ niệm, sẳn sàng bắn vào trí não mình....
Đích chặn hỏi một đứa bé vừa ở dưới hầm ngờ ngác chui lên :
- Mày biết lão Liên xóm này không ?
- Không.
- Mày biết còn ai trong xóm đó không ?
- Không.
- Cha mẹ mày ở đâu ?
- Chết hết rồi, dưới hầm.
- Nhà mày đâu ?
- Trong kia.
Đích nheo mắt nhìn theo ngón tay trỏ của đứa bé :
nơi cái xóm trống hoang đó mấy mảnh tường lổ đổ, mấy cây cau cháy và vài đám khói. Đích hỏi tiếp :
- Có tụi nó về đây không ?
- Không biết.
- Mày lấy gì để sinh sống ?
- Sống à, không có gì hết.
Đích ngậm ngùi, đi ra ngoài giàn bí hái một trái bí để luộc ăn
với cơm buổi trưa. Đích móc trong túi năm chục bạc đưa cho đứa bé :
- Trả tiền trái bí cho em đây này.
- Không.
- Sao lại không, sao không lấy tiền.
- Lấy sợ các ông nói "tề điệp", các ông giết.
- Không, đây là lính Quốc gia. Lấy tiền đi.
- Không.
- Sao lại không hoài.
Thằng bé ngước lên :
- Các ông có giết tôi không ?
- Không.
Lúc bấy giờ một người lính khám phá ra một cái xác chết đã hôi sình. Người lính trở về nói với Đích :
- Cha mày bao nhiêu tuổi ?
- Cỡ sáu mươi.
- Có phải cha mày dưới mương nước không ?
- Tao làm sao biết được. Ăn mặc đồ gì ?
- Chiếc áo viện trợ.
- Việt Cộng đó mày.
- Việt Cộng gì mặc áo có mang nhãn hiệu Chicago.
- Mày thấy thực à.
- Tao dí cái mũi súng vào cổ, cổ bấy ra, tao thấy chữ in còn nguyên. Ghê quá, hôi thúi quá. Mày lại xem đi.
Đích cộc cằn :
- Mày cuốc đi, tao mệt quá rồi.
Buổi chiều khi đoàn quân trở về Đích còn thấy thằng bé đứng bên
mái lá che tay lên mắt nhìn ngược hướng mặt trời. Đích nói với người bạn
ngồi bên cạnh :
mày có dầu nhị thiên đường cho tao một ít. Người bạn đưa ve dầu
cho Đích, anh ta xoa xoa trên mũi nói Đ.M. cái thằng già chết dưới mương
hôi thúi quá, chắc cũng bảy tám ngày rồi, chết mà nằm úp để lòi cái óc
trắng hếu lên trời. Người bạn nói hắn mặc áo viện trợ người Chicago, ai
bên Chicago cho cái áo để mục rã trên xác người Việt Nam.
Đích hít một hơi dầu rồi nói như sực tỉnh :
- Ơ, hồi nãy có đứa nào chịu khó chôn lão già không bây. Cung Tích Biền (1968) (từ: Vietmessenger)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét