Nhất Linh thời còn trẻ |
“Một
lần. Buổi trưa. Lâu rồi. Mẹ tôi ngồi nhặt cau trên sập gụ. Tôi nằm ngửa
bên cạnh bà, hai tay cầm giơ trước mặt cuốn truyện Đoạn Tuyệt của Nhất
Linh. Đọc đến đoạn cảnh mẹ chồng ác nghiệt với con dâu, tôi nhỏm dậy hỏi
mẹ tôi: “Mợ này, mợ có phải chịu cảnh mẹ chồng nàng dâu như cậu tả
trong truyện không?”. Mẹ tôi ngửng lên nhìn tôi nói: “Đấy là cậu viết
tiểu thuyết... Bà nội con có khó tính thật nhưng đâu đến nỗi khắc nghiệt
thế...”. Rồi mẹ tôi tiếp tục nhặt cau.”
Trên
đây là phần đầu của hồi ký nhan đề “Bà Cẩm Lợi” tôi viết về mẹ tôi, bà
Nhất Linh. Tôi rất tâm đắc bài viết này, đặc biệt là câu mở đầu “Một lần. Buổi trưa. Lâu rồi”
mà tôi cho là một lối hành văn mới mẻ. Viết xong, vì muốn khoe bà chị,
tôi in bản thảo gửi ngay cho chị Thoa ở bên Pháp đọc trước khi đăng trên
tạp chí. Ít lâu sau tôi nhận được điện thoại của chị. Chị chê tôi: “Em
không biết viết văn. Câu văn thì phải có chủ từ, phải có động từ; em
không thể viết hai chữ “Một lần” rồi chấm ngang xương được. Chị có quen
một bà bạn dậy Việt văn, chị đề nghị để bạn chị sửa lại bài ấy trước khi
em cho đăng báo.” Rồi chị nói thêm: “Em phải học lối viết của cậu thì
văn mới hay được.”
Chị
tôi nói thế nhưng tôi không giận chị. Trái lại tôi yêu chị Thoa của tôi
hơn vì câu nói thể hiện cái tính thật thà chơn chất nó làm nên con
người chị.
Chị
Thoa bây giờ không còn nữa. Có thể chị đã được gặp lại cha tôi ở bên
kia thế giới như chị từng mong ước khi chị còn sống. Và có thể chị đã
thuật lại quãng đời sau này của chúng tôi cho cha tôi nghe. Ông nghĩ sao
khi được biết, qua lời chị kể, nửa thế kỷ sau khi ông mất, tôi đã trở
thành “một nhà văn không biết viết văn”.
Năm ấy tôi ở tuổi đôi mươi. Tôi
là người duy nhất trong số các con của ông cụ thường hay bàn luận với
cha về chuyện văn chương. Thời gian này cha tôi vừa viết xong cuốn tiểu
luận “Viết và đọc tiểu thuyết” và chúng tôi bàn về cuốn sách này. Trong
sách có đề cập đến “sự quan sát” và “tìm chi tiết” mà ông cụ cho là
những yếu tố quan trọng để viết một quyển truyện. Trong lúc bàn luận tôi
thuật lại với ông một chuyện tôi chứng kiến: một hôm ở Đà Lạt tôi đang
đứng trước vườn nhà thì thấy ông cụ tôi tiễn một người khách đi qua vườn
để ra về. Hai người dừng lại trước một cái cổng gỗ thấp. Ông cụ nhìn
vào cái then cổng giơ tay toan gỡ cái then cài lên thì người khách -
tưởng lầm cha định bắt tay - vội đưa tay ra bắt. Cha tôi bắt tay ông
khách rồi sau đó một lát lâu mới giơ tay gỡ cái then cổng. Tôi hỏi ông
có phải ông cố ý không mở cửa ngay là cốt để tránh cho khách cái ngượng
biết là mình lầm. Cha tôi trả lời ông không nhớ chuyện ấy, nhưng “tránh
cho người khác cái ngượng biết rằng mình lầm” là một nhận xét hay, khi
viết truyện nên có những chi tiết như thế.
Một
lần khác khi xuất bản cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy ông đưa cuốn sách
cho tôi đọc. Một tuần sau biết tôi đã đọc xong ông cụ hỏi ý kiến tôi.
Tôi nói: “Con đọc xong và khi gấp sách lại con chỉ nhớ có một chi tiết,
chi tiết rất nhỏ có lẽ người đọc chắc chẳng mấy ai để ý, đó là đoạn cậu
tả lúc anh chàng Ngọc xuống suối đổ thuốc độc vào bi-đông đựng cà phê để
đầu độc Nghệ và Tứ. Trong lúc chăm chú làm công việc này và chỉ chú ý
sao cho thuốc độc khỏi đổ ra ngoài, nhưng tiếng nước róc rách vẫn lọt
vào tai chàng và tuy không nhìn chàng cũng thấy hiện ra những gợn sóng
nhỏ, những vân ánh sáng chạy lăn tăn trên nền cát trắng mịn. Đọc
nhưng chi tiết này con thấy cậu tả rất sống động và rất thực, mặc dù
trên đời mình chưa bao giờ có kinh nghiệm làm những chuyện như thế”.
Hồi
đó tôi chưa viết văn, chưa hề có truyện nào đăng trên báo, chỉ thỉnh
thoảng viết một truyện ngắn đưa ông xem và ông rất thích. Nhưng chính
qua những lần nói chuyện như thế mà chúng tôi thấy rõ mối đồng cảm giữa
hai bố con trong văn chương. Tuy thế cha tôi không hề khuyến khích tôi
đi vào con đường văn của mình, mặc dù hồi đó ông đã khuyến khích vài cây
bút trẻ trở thành những nhà văn có tên tuổi. Có thể là ông muốn để tôi
tự do tuyệt đối trong việc lựa chọn đời mình, cũng có thể là ông muốn
tôi chú tâm vào việc học hành (giống như ông thời bên Pháp theo học
ngành khoa học, tôi hồi đó cũng đang theo học chương trình cử nhân của
trường Đại học Khoa học Sài Gòn).
Tôi
cho là chính vì tin tưởng vào khiếu văn nơi tôi mà ông cụ đã quyết định
làm giấy ủy quyền trao cho tôi (thay vì một người con khác của ông)
trách nhiệm trông coi hai nhà xuất bản Đời Nay và Phượng Giang và quyết
định xuất bản những tác phẩm của ông trước khi ông từ trần.
Về
cuộc sống tôi đã đi đúng con đường của cha tôi trong những năm đầu của
tuổi thanh niên: cả hai chúng tôi đều tốt nghiệp Cử nhân Khoa học và
cùng khởi nghiệp bằng nghề dậy học. Nhưng sau đó thì con đuờng của hai
bố con khác hẳn: trong khi cha tôi bỏ nghề dậy để làm báo, viết văn...,
nghĩa là không hề dùng tới kiến thức khoa học mà ông đạt được ở đại học
Montpellier, thì tôi suốt đời vẫn sống bám vào kiến thức ấy (giáo sư
Toán Lý Hoá ở Việt Nam hay chuyên viên Hoá Học ở Hoa Kỳ) cho đến ngày về
hưu. Tôi đã không chọn đi theo nghiệp văn của ông cụ. Trong vòng gần
nửa thế kỷ tôi không cầm bút, tôi chỉ viết hai bài về cha tôi theo yêu
cầu xin bài của các tạp chí.
Năm
1964, nhân ngày giỗ đầu của ông cụ tôi, báo Văn Học ở Sài Gòn ra số đặc
biệt Tưởng Niệm Nhất Linh, anh Phan Kim Thịnh xin tôi viết một bài, và
Niềm Vui Chết Yểu, bài viết đầu tiên của tôi xuất hiện trên báo. Bài ấy
được khá nhiều người đọc và gây tiếng vang, một phần vì bài viết tiết lộ
chi tiết cái chết và những giờ phút cuối cùng của Nhất Linh, một phần
khác vì lối viết lạ, một thứ pha trộn giữa hồi ký và văn chương. Hai nhà
văn Duy Lam và Nguyễn Thị Vinh (hai người được cha tôi đề nghị là thành
viên tương lai của Tự Lực Văn Đoàn) khuyến khích tôi tiếp tục viết,
nhưng trái với nhiều người mong đợi, tôi không hề cầm bút.
Mãi
21 năm sau, vào tháng 7 năm 1985 ở Hoa Kỳ, nhà văn Võ Phiến xin bài tôi
nhân dịp tạp chí do anh chủ trương ra số đặc biệt về ông cụ tôi. Vì thế
mà có bài viết thứ hai Nhất Linh Cha Tôi xuất hiện trên tờ Văn Học Nghệ Thuật.
Rồi
18 năm sau nữa tôi mới viết bài thứ ba Cây Bàng Lá Đỏ đăng trên tập san
Thế Kỷ 21 số Xuân Quí Mùi 2003. Năm đó tôi vừa bước sang tuổi 63, và
chỉ còn hai năm nữa là đủ tuổi về hưu. Tôi nghĩ trước trong đầu những
chuyện tôi phải làm sau khi về hưu và quyết định thực hiện giấc mơ thời
niên thiếu: viết.
Vì
thế sau bài Cây Bàng Lá Đỏ tôi viết khá nhiều và đều đặn. Chủ bút tờ
báo, anh Phạm Phú Minh ưu ái dành diễn đàn Thế Kỷ 21 cho tất cả những
bài viết của tôi. Năm 2006, tôi tập hợp những bài ấy lại và xuất bản
cuốn sách đầu tiên Nhất Linh Cha Tôi. Rồi tiếp theo những năm 2008 và 2012 hai cuốn sách nữa của tôi lần lượt xuất bản, tập truyện Mùa Hạ Năm Ấy và bút ký Căn Nhà An Đông của Mẹ Tôi. Từ đấy tôi được thiên hạ khoác lên vai tôi hai chữ “nhà văn”, một chức vị tôi không chọn trong đời.
Cùng
thời gian tôi có sách xuất bản một người trong họ tôi, anh Nguyễn Lân,
con của nhà văn Hoàng Đạo, cũng sáng tác và xuất bản sách. Một hôm nọ,
nhân dịp Lân ghé Seattle tôi rủ Lân tới thăm nhà văn Thế Uyên, lúc này
anh đã bị tai biến mạch máu não và phải ngồi trên xe lăn. Mặc dù một
cánh tay bị liệt anh cũng ráng cầm ngược cái bút chì gõ đầu có cục tẩy
lên phím máy chậm chạp gõ từng chữ từng chữ để sáng tác. Tôi nói với
anh: “Trong họ mình chẳng bù với ông và Duy Lam viết từ nhỏ, trở thành
những nhà văn có tiếng tăm từ lâu, Lân và tôi mãi trên 60 tuổi mới bắt
đầu sáng tác, chúng tôi là những nhà văn muộn màng”. Lân nói thêm:
“Nghĩa là tụi tôi thuộc loại hoa nở muộn”. Rất nhanh Thế Uyên đáp lại:
“Không phải hoa nở muộn mà là hoa nở mượn”. Tôi hiểu ngay anh mỉa mai chúng tôi mượn danh cha mình để viết văn.
Đây
là lần thứ hai tôi bị chê bởi một người thân trong họ. Nhưng cũng như
lần trước với chị Thoa tôi không hề giận Thế Uyên vì tôi biết quá rõ
tính thích châm chọc của anh. Tôi nói: “Tôi phục ông thật. Ông viết bài
nói rõ ông bị stroke, não bộ của ông bị sứt mẻ, thế mà ông chơi chữ rất
nhanh và tài tình, chứng tỏ bộ óc của ông còn rất sharp”.
*
Bìa Xóm Cầu Mới xuất bản tại Việt Nam năm 2021 |
Trong lời Bạt cho cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi, nhà văn Duy Lam viết: “Sống
trong bóng rợp của một người cha nổi tiếng như Nhất Linh rồi cầm bút
viết những đoạn thể hồi ký về chính cha ruột mình về mặt tâm lý không
phải là chuyện dễ dàng.”
Nhà
văn Duy Lam viết không sai. Bóng rợp của cha tôi khiến tôi viết không
dễ như những nhà văn khác. Bởi vì cái bóng cha tôi rất đặc biệt, thế
gian ít có: cha tôi nổi tiếng không phải chỉ vì là nhà văn Nhất Linh mà
còn nổi tiếng vì là nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam. Sau cái chết của cha
tôi năm 1963 và trong bối cảnh chính trị rất phức tạp của thời cuộc
miền Nam Việt Nam những năm sau đó, chính cái bóng thứ hai của cha tôi
ảnh hưởng trực tiếp vào đời sống tôi. Có thể nói, với tôi, bóng rợp của
Nhất Linh là bóng mát, bóng rợp của Nguyễn Tường Tam là bóng đè. Một đằng bảo tôi viết đi, một đằng bảo tôi đừng viết.
Nói
cho công bình cái thời mà tôi mới bắt đầu viết tôi có lợi thế hơn hẳn
những nhà văn khác lúc khởi nghiệp. Bài viết của tôi không biết hay hay
dở cũng được độc gỉa tò mò đọc để xem “con trai ông Nhất Linh viết văn
ra sao?”. Nhưng lợi thế đó cũng làm tôi ngần ngại trước khi cầm bút. Tôi
nghĩ trong đầu: mình viết dở sẽ làm mất mặt ông cụ. Chưa viết mà đã tự
tạo cho mình một sự khó khăn, thành thử khi viết tôi đắn đo loay hoay
khổ sở lắm. Viết vài trang, bỏ dở, vài ngày sau, đọc lại thấy nhạt nhẽo,
vứt thùng rác. Cứ thế. Nhiều lần. Bài Niềm vui chết yểu sở dĩ
hoàn thành vì đã lỡ hứa với anh chủ bút báo Văn Học nên tôi phải ráng
viết cho xong. (Tôi tự xét mình có một đức tính, trong rất nhiều tính
xấu, đó là rất trọng lời hứa).
Bài
viết ấy gây tiếng vang lớn làm tôi thích thú thì ít mà làm phiền nhiễu
tôi thì nhiều, khiến tôi khổ sở còn hơn là cái khổ trong lúc viết bài.
Vì sao? Bà Nguyễn Thị Vinh và anh Duy Lam không những “bắt” tôi viết
tiếp (vì khen tôi viết hay) lại còn chưa chi đã bàn tính chuyện to lớn
là tiếp tục... sự nghiệp Tự Lực Văn Đoàn. Chưa chi đã làm tôi sợ. Đấy là
mới nói cái bóng Nhất Linh. Cái bóng thứ hai, cái bóng của Nguyễn Tường
Tam, còn khiếp hơn: các đồng chí của ông cụ tôi, thấy tôi nổi tiếng,
thay nhau đến quyến rụ và rủ tôi vào... đảng! Mà tôi thì lại chúa ghét
chính trị (cái khổ của tôi hồi đó là không có can đảm nói thẳng điều
đó). Của đáng tội tôi không trách họ rủ tôi vào đảng hoạt động chính
trị, cũng lỗi tại tôi cả vì tôi đã “dại dột” lạc đường vào lịch sử: đêm
đảo chánh ngày 1/11/1963 tôi cùng bốn sinh viên Nguyễn Hữu Đống, Nguyễn
Thanh Hùng, Nguyễn Trọng Cảnh và Dương Kiền chui vào Bộ Tổng Tham Mưu
QLVNCH, thảo truyền đơn ủng hộ cuộc đảo chính do Tướng Dương Văn Minh
cầm đầu, tờ truyền đơn ký tên 5 sinh viên được loan trên đài phát thanh
Sài Gòn sáng ngày 2/11/1963, như tôi đã thuật lại trong bài “Tờ Truyền
Đơn”.
Sau bài Niềm vui chết yểu
cuộc sống vô tư của tôi cũng chết yểu theo. Tôi phải tự nhủ thôi đừng
viết nữa, cứ im lặng sống khoẻ ru như các anh tôi, không bị ai kỳ vọng
làm phiền. Hồi ấy tôi bị dụ vào những hoạt động này nọ vừa văn hoá vừa
chính trị tốn rất nhiều thì giờ, ảnh hưởng đến việc học hành của tôi ở
Đại học Khoa học mà môn học tự nó đã gay go rồi, lại phải học bằng tiếng
Pháp. Cuối năm 1964 nghe nói ở Đại học Huế mới mở phân khoa Khoa học
đầu tiên giảng dậy bằng tiếng Việt, tôi bèn khăn gói ra Huế học, một là
để việc học dễ dàng hơn, hai là để trốn bầu khí chính trị xáo động ở Sài
Gòn.
Tác giả Nguyễn Tường Thiết tại Quảng Trị năm 1965 |
Để
chú tâm vào việc học, ở Huế tôi không tiếp xúc với bất kỳ ai và từ chối
không tham dự mọi sinh hoạt dù văn hoá hay chính trị. Thế mà có yên
đâu. Một chuyện xẩy ra cho tôi cứ như là trong truyện trinh thám: Một
bữa nọ đi học về tôi đi bộ trên đường Lê Lợi dọc bờ sông Hương. Một
chiếc xe hơi màu đen rà tới đậu gần tôi. Hai người đàn ông ăn bận lịch
sự xuống xe tiến về phía tôi áp sát người tôi ép tôi lên xe. Hai người
bắt cóc tôi ngồi hai bên hông tôi ở băng dưới. Tất cả 5 người trên xe
đều im lặng. Chiếc xe chạy qua cầu Trường Tiền qua cửa Thượng Tứ tiến
vào Thành Nội. Xe chạy lặng lẽ một hồi qua những con đường nhỏ nhiều
bóng cây rồì đậu trước một căn nhà nằm khuất sau vườn cây rậm. Khi họ
dẫn tôi vào nhà tôi thấy trong một căn phòng rộng đã có đầy người trong
đó và không khí rất nghiêm trang. Ở cuối phòng một băng-rôn với hàng chữ
đỏ, lớn: Tinh Thần Nguyễn Thái Học Bất Diệt. Phía dưới là di ảnh của
Nguyễn Thái Học và cha tôi. Tôi sực nhớ ra hôm đó 16-7-1965, là ngày
tưởng niệm 35 năm liệt sĩ Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu đài.
Trước
quang cảnh ấy trong óc tôi lóe lên hình ảnh đám tang của ông cụ tôi với
chiếc xe tang có hàng băng-rôn ở đầu xe: Nguyễn Thái Học 16-7-1930,
Nguyễn Tường Tam 7-7-1963.
Trong
thời gian tôi ở Huế, một đảng viên cốt cán của VNQDĐ cũng là đàn em của
ông cụ tôi, anh Lê Hưng, từ Sài Gòn đến thăm tôi tại Đại học xá Nam
Giao. Anh Lê Hưng nói với tôi: “Anh biết là nhiều người rủ em vào đảng
và em đã từ chối, lấy cớ bận học. Hôm nay, anh gặp em cốt hỏi em một
câu, một câu thôi, em hãy trả lời thành thật: em có thích làm chính trị
không?”. Tôi ngạc nhiên trước câu hỏi của anh. Trước đó người ta chỉ
nói đến bổn phận, đến trách nhiệm phải làm một cái gì cho đất nước,
không ai đặt vấn đề “thích” hay “không thích”. Tôi trả lời là thực bụng
tôi không thích chính trị. Anh cám ơn tôi và nói từ nay về sau sẽ xem
tôi như bạn và không đả động đến chuyện lôi kéo tôi nữa. Anh Lê Hưng giữ
lời hứa này với tôi cho đến ngày anh mất, khoảng trên 20 năm trước đây,
anh bị tử nạn vì đi bộ băng qua đường bị xe hơi cán chết ở tiểu bang
California.
Tôi
không nhớ rõ vào năm nào nhưng chắc khoảng vài năm sau khi chúng tôi
định cư ở Mỹ một hôm tôi lái xe từ thành phố Tacoma đến Seattle thăm nhà
văn Thanh Nam vì nghe nói anh bị bệnh. Lúc đến nhà mới biết anh bị đau
cổ họng không nói chuyện được và chị Thanh Nam, nhà văn Tuý Hồng, thay
anh tiếp chuyện tôi. Trong câu chuyện, chị Tuý Hồng hỏi tôi: “Hồi ở Việt
Nam tôi có đọc một bài viết của anh về ông cụ. Sau bài đó tôi chờ đợi
mãi không thấy anh viết. Nghĩ rằng anh có thể viết bài nhưng lại đăng ở
tạp chí khác chăng, tôi đi lùng tất cả các báo để đọc, rồi lại hỏi thêm
bạn bè, nhưng tuyệt nhiên không thấy bài nào của anh cả. Tại sao anh
không viết?” Lúc ấy tôi im lặng không nói gì vì không biết trả lời chị
ra sao.
Năm 2007 sau khi cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi
được xuất bản, tôi có gửi tặng nhà nghiên cứu và phê bình văn học
Nguyễn Hưng Quốc ở bên Úc một cuốn. Anh Quốc cũng có thắc mắc giống hệt
chị Túy Hồng, anh viết cho tôi bức điện thư đề ngày 11 Jan 2007 như
sau:
Anh Nguyễn Tường Thiết thân,Tôi đã nhận được cuốn hồi ký anh gửi hôm qua. Tôi cũng đã đọc xong. Đọc nhanh một phần vì một số chương là đọc lại. Ấn tượng chung rất thích. Ít có cuốn hồi ký văn học nào viết hay như vậy. Anh có khiếu quan sát và nhận xét tinh tế. Trí nhớ lại tốt. Đặc biệt, điều tôi thích nhất: viết có chất văn. Thường, phần lớn các hồi ký chỉ nhằm đến việc cung cấp tư liệu. Anh thì rõ ràng là viết hồi ký như một cách làm văn chương. Về phương diện văn chương, ngoài câu văn rất trong sáng và gợi cảm, một trong những cống hiến có ý nghĩa nhất là sự xáo trộn về thời gian: mảnh ký ức này chồng lên mảnh ký ức khác, quá khứ xa chồng lên quá khứ gần. Cái nhớ của con người, nhờ đó, trở thành phức tạp và đa tầng hơn. Và cũng nhờ đó, trở thành thú vị hơn.Đọc cuốn hồi ký, điều dễ thấy nhất là tình yêu của anh đối với cha anh và với anh em, họ hàng của anh. Tuy nhiên, điều khác cũng dễ thấy là sự tỉnh táo của anh khi anh nhận xét về người thân. Tôi rất cảm động khi thấy anh ghi nhận cái-không-đẹp của mẹ anh hay sự chậm chạp của chị anh. Ghi nhận như vậy không phải chỉ là một sự thành thực và can đảm mà còn là một sự tỉnh táo ít thấy. Tôi cũng rất quý anh ở chi tiết hồi trẻ anh mê đọc VP (Võ Phiến) hơn đọc bố anh. Những sự thành thực như vậy làm tập hồi ký như sáng hơn. Tôi nghĩ thế, không biết có đúng không?Điều tôi ngạc nhiên khi đọc tập hồi ký là cái khoảng trống vời vợi giữa bài đầu (Niềm Vui Chết Yểu) và bài sau (Nhất Linh Cha Tôi), hơn 20 năm, từ 1964 đến 1985. Tôi không hiểu sao anh có thể im lặng lâu đến như vậy? Tôi chỉ hy vọng là từ nay, về hưu rồi, anh sẽ viết thật nhiều.Xin cảm ơn anh về cuốn sách. Mong gặp anh (và chị Thái Vân?)Thân,Nguyễn Hưng Quốc
Hy
vọng bài viết này sẽ giải tỏa thắc mắc của anh Nguyễn Hưng Quốc về cái
“khoảng trống vời vợi” trên 20 năm tôi im lặng không viết.
*
Viết, trong bóng rợp của người cha... Bóng rợp ấy ảnh hưởng thế nào đến cách viết của tôi?
Năm
2020 cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi được xuất bản ở Việt Nam. Một buổi tọa
đàm về cuốn hồi ký này diễn ra tại Quận 3 Sài Gòn vào ngày 4/7/2020.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu trong phần giới thiệu cuốn sách có nói: “Nhất
Linh Cha Tôi không phải chỉ là cuốn hồi ký thuần tuý của một người con
viết về cha vì tác giả là nhà văn nên bút pháp sống động vô cùng. Tác
giả cũng rất hay ở chỗ thoát ly khỏi văn phong của Tự Lực Văn Đoàn. Ông
Nguyễn Tường Thiết là con của Nhất Linh nhưng văn của ông không phải là
một “Nhất Linh con” hay “Tự Lực Văn Đoàn nối dài”. Văn trong cuốn hồi ký
này rất hiện đại.”
Qua
những lời giới thiệu trên và qua nhận định của những nhà phê bình như
Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc thì rõ ràng là tôi có một lối viết khác biệt
với cha tôi.
Nhưng
cái khác biệt đó, theo tôi, chỉ khác biệt về bút pháp hay kỹ thuật
viết, chứ về nội dung cơ bản thì không có gì khác nhau: từ lối hành văn
trong sáng, câu văn giản dị, những nhận xét về người về cảnh, tâm lý
nhân vật, tìm chi tiết... nhất nhất tôi đều học từ Nhất Linh.
Ngoài
ra tôi còn học được bài học quý giá từ cha tôi khi ông khuyên tôi viết
văn cần nhất ở sự chân thành. “Mình phải thành thật đối với chính mình”.
Lời khuyên này là kim chỉ nam cho những bài viết của tôi. Trước khi đặt
bút viết, lời khuyên này bao giờ cũng loé lên trong đầu tôi trước nhất.
Nhà
nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc nhận xét về cách viết của tôi đặc
biệt ở chỗ thời gian xáo trộn: “mảnh ký ức này chồng lên mảnh ký ức
khác, quá khứ xa chồng lên quá khứ gần”. Nhà nghiên cứu văn học Thụy
Khuê tìm thấy trong hồi ký của tôi “mộng và thực giao thoa trong những
mảnh đời anh, mảnh đời gia đình, được cắt dán chồng chéo một cách rất
hiên đại, không trước sau, không thống nhất, như trong lối viết hồi ký
cổ điển.” Nhà văn Phạm Xuân Đài đào sâu hơn khi ông viết: “Truyện của
Nguyễn Tường Thiết xẩy ra luôn luôn cảnh vụt đi vụt vể của những mảnh
thời gian khác nhau, đó là một kỹ thuật để diễn tả cái thực tại tâm viên ý mã của tâm trí con người, của những liên tưởng không dứt xẹt chỗ này chỗ kia nhanh như điện.”
Tôi
cho rằng chính cái “kỹ thuật để diễn tả thực tại” như nhà văn Phạm Xuân
Đài nêu lên mới chính là điểm làm nên khác biệt giữa cách viết của hai
cha con.
Trên
nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ khi cha tôi “ngừng bút” chấm dứt nghiệp
văn, cho đến ngày tôi bắt đầu “gõ máy” để khởi đầu văn nghiệp. Hoàn cảnh
thay đổi, phương tiện viết thay đổi, cách thưởng ngoạn của độc giả thay
đổi... do đó tạo nên cách viết thay đổi.
Hãy
nhìn khung cảnh viết của tôi, năm 2006, khi tôi ngồi trong quán cà phê
Starbucks để viết “Đỉnh Gió Hú”. Khung cảnh là một chiếc bàn nhỏ có ba
thứ đặt ở trên: ly cà phê, cái laptop và tập bản thảo dịch của
ông cụ. Ly cà phê, cái laptop là hiện tại, tập bản thảo là quá vãng. Về
không gian ba thứ ấy chỉ cách nhau có một gang tay nhưng về thời gian
chúng cách nhau những nửa thế kỷ. Tay tôi nâng cốc cà phê, mắt tôi nhìn vào phím máy, óc
tôi nghĩ về tập bản thảo. Tất cả xẩy ra đồng thời và chỉ trong nháy
mắt. Thực tại của tôi lúc viết là những liên tưởng không dứt “xẹt chỗ
này chỗ kia nhanh như điện” đúng như diễn tả của nhà văn Phạm Xuân Đài.
Để bắt kịp cái liên tưởng tâm viên ý mã ấy trong tâm trí tôi, tôi phải dùng kỹ thuật viết flashback
để ghi lại những mảnh hiện tại, quá khứ chồng chéo lên nhau. Lối viết
này tôi bắt chước kỹ thuật điện ảnh hiện đại với nhiều “xen” flashback
rất đột ngột.
Ngày xưa ông cụ tôi viết tay. Bây giờ tôi gõ máy vi tính. Máy giúp tôi thực hiện flashback dễ dàng. Chỉ việc highlight, copy, paste
tôi có thể nhào lộn thời gian, vứt đoạn này lên trên, bỏ đoạn kia xuống
dưới trong nháy mắt, nhờ thế mà những mảnh quá khứ, hiện tại được cắt
dán, chồng chéo lên nhau một cách dễ dàng nhanh chóng.
Khi viết xong tập hồi ký Nhất Linh Cha Tôi
tôi in từ trong máy ra để có được “bản thảo” tác phẩm của mình. Bản
thảo là một tập 300 trang giấy chữ in trông gọn gàng sạch sẽ vì mọi sửa
đổi, thêm thắt, bôi xóa, nhờ máy đã không còn để lại một dấu vết nào.
Trông nó sạch sẽ nhưng trơ trẽn, vô hồn.
Bản thảo Xóm Cầu Mới
của cha tôi, trái lại, chứa đầy nét gạch xoá, sửa chữa, chú thích.
Chính những tuồng chữ chép tay nhỏ nhí và run run này mới đích thực là
bản thảo. Mỗi lần nhìn nó tôi lại rưng rưng trong người như thể có hình
bóng và hồn thiêng cha tôi hiển hiện đâu đây trên những trang giấy.
*
Bây
giờ ở tuổi bát tuần tôi xem như ngừng bút hẳn. Có lần tôi tự hỏi: nếu
trời cho mình được trẻ lại, được sống một lần thứ hai thì mình sẽ chọn
đời sống ấy ra sao và làm gì? Một câu hỏi ngớ ngẩn nhưng tôi nghĩ ai mà
trong đời chẳng có lúc tự đặt câu hỏi “giá mà”?
Vâng,
giá mà tôi trẻ lại ở tuổi đôi mươi tôi sẽ chọn đi lại đúng cuộc đời cũ
của mình vì tôi bằng lòng với nó, chỉ khác một điều là tôi sẽ chọn
nghiệp văn và để cả cuộc đời thứ hai này viết một tác phẩm duy nhất, một
tác phẩm vĩ đại dầy gần mười ngàn trang; đó là tiếp tục công trình tâm
huyết mà cha tôi đã bỏ dở dang để hoàn tất trường giang tiểu thuyết Xóm Cầu Mới (Bèo giạt).
Đây là một cuốn tiểu thuyết mang hoài bão lớn nhất của ông cụ tôi. Cuốn sách theo dự tính sẽ dầy “gần
vạn trang” là “một cuốn Đông Chu Liệt Quốc của những đời sống tầm
thường, vui lẫn buồn, những vui buồn nhỏ nhặt hàng ngày của những nhân
vật, những gia đình sinh hoạt ở trong một cái xóm nhỏ ở đầu một chiếc
cầu gỗ từ lúc cầu bắt đầu mọt cho đến khi cầu gẫy và xóm nhỏ và các gia
đình cũng tan tác theo với chiếc cầu gỗ. Những đời “bèo giạt” đến tụ hội
ở xóm nhỏ cũng như những bèo giạt đến, trong ít lâu, vương bám vào chân
cầu, rồi lại trôi đi theo dòng nước, không biết về đâu” (Nhất Linh).
Hoài
bão thực hiện cuốn trường thiên tiểu thuyết đó, giống như chính cuộc
đời ông, bỗng dưng đứt đoạn khi ông đột ngột qua đời ở tuổi năm mươi
bẩy. Cho tới khi nhắm mắt Nhất Linh hoàn toàn không hay biết là tác phẩm
dang dở này của mình sẽ được xuất bản. Và tôi là người xuất bản cuốn
sách đó lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1973, và tái bản lần thứ nhất ở Hoa
Kỳ năm 2002.
Viết trong bóng rợp của người cha
là thái độ tôi tự chọn. Không bao giờ tôi có ý muốn thoát ly khỏi bóng
rợp đó, cho dù có nhiều người khuyên tôi (trong số có nhà phê bình văn
học Thụy Khuê) là hãy từ bỏ cái bóng Nhất Linh để trở thành một nhà văn
độc lập.
Hôm
nay là ngày hai mươi ba tháng chạp Âm lịch, khi tôi viết những dòng chữ
kết thúc bài này thì thiên hạ đang chuẩn bị đón Tết Nhâm Dần. Trong
không khí rộn ràng đón Xuân ấy riêng tôi có một niềm vui cuối năm: cuốn
tiểu thuyết tâm đắc nhất của cha tôi, cuốn Xóm Cầu Mới (Bèo giạt) vừa in xong và được tái bản lần đầu tiên ở Việt Nam sau năm 1975.
Nguyễn Tường Thiết
Seattle, ngày 25/1/2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét