Trịnh Doãng cùng họ với tôi. Hắn ở ngành dưới. Xét về thứ bậc, Doãng phải gọi tôi bằng ông cho dù hắn hơn tôi cả một giáp. Tôi là dân thợ mộc, quanh năm xách cưa đục đi kiếm ăn thiên hạ, thỉnh thoảng mới về làng, mỗi lần về lại được nghe một chuyện về Doãng, thật có mà người ta thêu dệt thành giai thoại cũng có, cứ rối tung rối mù chẳng biết đâu mà lần. Thời gian hầu như không tác động mấy đến tính cách của Doãng. Con người hắn vẫn như mấy chục năm trước, chỉ có khuôn mặt là nhàu đi, kéo những vết sần lỗ chỗ, hậu quả của trận đậu mùa, giãn ra, trông lại có vẻ dễ coi hơn trước.
<!>
Trong ba người con của ông Cả Duệch thì Doạng và Doan thuộc
loại làm ăn cơ chỉ, tính hạnh hiền lương, chỉ riêng Doãng, anh thứ hai
là trái tính trái nết. Doãng tuổi Ất Hợi, năm lên bảy bị bệnh đậu mùa,
toàn thân phủ dày một lớp mụn to bằng hạt đậu, mọng nước như phỏng dạ.
Những mụn ấy vỡ, nước vàng chảy ra bốc mùi khăn khẳn không chịu được.
Người Doãng quắt như con mèo hen, miệng hớp hớp không khí chẳng khác gì
con cá mắc cạn, thở khò khè. Ông lang Ích thăm bệnh xong, lắc đầu:
- Tôi chịu, ông bà sắp chiếu, chẻ lạt đi là vừa...
Ông
Duệch thương con không nỡ. Thôi thì còn nước còn tát. Nghĩ vậy, ông bảo
Doạng chạy ra xóm Bãi gọi bà Phó Lễ vào xem có cứu được không. Bà Phó
Lễ là lang vườn kiêm nghề cô đồng. Thuốc của bà toàn nước thải với bùa
chú thêm ít rễ cây trộn lẫn cho con bệnh uống. Vậy mà đến chập tối Trịnh
Doãng tỉnh lại. Lúc ra về bà Phó dặn:
- Mệnh thằng bé này lớn lắm.
Nó vốn là tướng Nhà Giời bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian hầu hạ “Chúa
Bà” nên không thể “đi” được.
Lớn lên Trịnh Doãng không thích học mà
chỉ khoái chia phe chơi trò đánh nhau. Dạy học ở làng Yên là ông đồ
Sách. Đồ Sách dữ đòn, trò nào mới nhập môn cũng bị nện ba roi thật đau
để nhớ câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Doãng là đứa ngỗ nghịch lại lười
nên nên hay bị thầy nọc ra sập gụ đánh đòn. Hắn căm lắm, lựa hôm đồ Sách
đi ăn đồng môn, lẻn vào nhà vạch chim đái vào nghiên mực với ống bút.
Ồng Duệch biết chuyện, trói hai tay Doãng treo lên xà nhà, nện cho một
trận nhừ tử. Doãng gan lỳ, trơ ra như đá, không khóc cũng chẳng van xin,
ông bố chịu phép, phải tha. Từ đấy hắn bỏ học chuyên đi thả ống lươn.
Đầu
năm Bính Thân, ông Cả Duệch bị trúng gió độc vào hôm đưa ma lão Quản
Tháp, được hai ngày thì mất. Lúc ấy Doạng đã có vợ, ăn riêng nhưng ba
anh em vẫn ở chung một nhà. Ông bố vừa nằm xuống là Doãng đòi chia gia
tài. Doạng bàn với Doan cắt cho Doãng phần đất sát đường có ngôi nhà
ngang ba gian lợp ngói mũi nhưng hắn không nghe mà ngang ngược đòi mọi
thứ phải chia ba, anh nào không thích có thể bán cho người khác. Gay
nhất là toà nhà chính. Doãng tranh gian giữa. Chị dâu không chịu được,
nói mấy câu bị thằng em trời đánh vả cho một cái hộc máu mồm. Ông trưởng
công an đến dàn xếp, Doãng cầm con dao mác vót nan đứng giữa cửa, mặt
hằm hằm, cặp môi dày chĩa ra như môi cá ngão:
- Kẻ nào cả gan dám bước qua bậc cửa là Doãng này lấy mạng đổi mạng.
Vua
cũng thua thằng liều. Cuối cùng, anh em Doạng, Doan phải chấp nhận
phương án chia ba. Chia buổi sáng, chiều Doãng gọi người bán tài sản của
mình. Doạng hốt quá, sợ cơ nghiệp mấy đời cha ông chắt bóp mới có được
bỗng chốc sang tay người khác, liền bàn với Doan vay giật mỗi nơi một
ít, gom đủ số tiền, tất nhiên là cao hơn so với giá nhà đất hiện thời,
đưa cho ông em đầu bò. Mấy hôm sau Doãng tìm mua được miếng đất cuối
làng gần khu Mả Gạch của ông Vệ Tuân. Ông này thua xóc đĩa phải gán nợ
về ở với con . Khu đất rộng chừng hai sào có túp nhà ba gian lợp rạ. Từ
đấy anh em Doạng Doãng không thèm nhìn mặt nhau.
Không biết Doạng học
thả ống lươn ở đâu, vì làng Yên đến lúc ấy mới chỉ có công nghệ móc
cua, đánh giậm, chạy dủi và đơm đó. Móc cua là thứ nghề hạ đẳng, chủ yếu
dành cho trẻ con và đàn bà. Cua đồng là của trời cho, nhiều vô thiên
lủng, rẻ như bèo, không bõ bẩn tay những đấng nam nhi. Đánh giậm và chạy
dủi có khá hơn nhưng tốn sức, cuối buổi cá tép thường ươn, khó bán. Đặt
đó lại phải thức canh đêm, lơ đi một tí là công cốc, vì trộm ở xóm Rộc
như rươi. Có thằng chơi đểu, sau khi dốc hết cá tép trong chúm, còn co
chân đạp bẹp hết lượt. Cuối cùng chỉ thả ống lươn là sống được, thậm chí
sống phong lưu nếu biết cách giữ độc quyền, không để bí quyết rơi vào
tay người khác. Kỹ thuật làm ống lươn khá đơn giản. Nguyên liệu chính là
một đoạn nứa ngộa có đường kính cỡ bắp chân, đầu mặt trổ vài lỗ thông
khí, đầu rỗng dùi hai lỗ đối nhau, lắp hom rồi xuyên qua một thanh tre
vạt nhọn là thành cái bẫy bắt lươn khá hiệu quả. Thứ mồi hấp dẫn nhất là
ốc vặn đập dập trộn với giun đất. Bí mật nghề nghiệp của Doãng là ở
công đoạn chọn vị trí cắm ống. Lươn ưa cư trú ở những ao tù nhiều bùn.
Làng Yên thuộc vùng chiêm trũng, mười hộ thì có đến bảy, tám vật đất đắp
nền nhà, thành ra, chỗ nào cũng có ao chuôm, thùng vũng, rất thuận tiện
cho Doãng hành nghề.
Thường thì ban ngày hắn la cà khắp nơi, có khi
lẩn vào những chỗ ngóc ngách, rậm rạp quan sát bằng con mắt dày dạn kinh
nghiệm. Ai không biết, tưởng hắn vô tích sự, mải chơi. Mặc kệ. Doãng
không thèm chấp. Chập tối, sau khi đã chuẩn bị đồ nghề đầy đủ, hắn khoác
chùm ống lên vai đến những vị trí ban ngày nhắm được. Thao tác của
Doãng rất gọn, có khi chưa đầy ba phút đã thả xong một ống. Những ngày
tối trời, giáp mặt không nhìn thấy nhau, Doãng cứ bước phăm phăm, khỏi
cần đèn đóm. Đàn bà, con gái rất sợ gặp tay thả ống lươn ban đêm vì cho
rằng hắn là hiện thân của mọi sự rủi ro. Có lần chàng ta vừa lỉnh kỉnh
bê ống lươn đến đầu Cầu Đá ngăn giữa hai thôn Đông, Đoài gặp ngay anh bí
thư chi đoàn đang bóp vú cô phân đoàn trưởng. Thoáng thấy bộ dạng hắn,
cô gái ngỡ là ma hiện hình, hoảng quá, rơi tõm xuống ngòi. Cực chẳng đã,
anh bí thư đành phải nhảy xuống nước cứu nhân tình sau khi cô ta đã
uống no bụng thứ nước nhờn nhợt khá nặng mùi được thải ra từ một trại
chăn nuôi lợn tập thể.
Xong việc, Doãng quay về làm một giấc. Cuối
canh tư, thức dậy trong lúc cả làng còn đang ngái ngủ, hắn rảo một vòng
quanh các ao thu hết những chiếc ống đã cắm hồi đêm. Trời vừa sáng,
Doãng lần lượt tháo hom dốc những con lươn béo múp, vàng ươm ra chiếc rổ
sề. Hắn chọn toàn con to thả vào nồi hông bán buôn cho cô Mít. Loại
nhỏ, hắn cho vào om củ chuối nhắm rượu hoặc thả xuống ao nhà để ăn dần.
Có hôm Doãng đổ ra được ba con rắn, toàn loại cạp nia, khúc đen khúc
trắng. Của này độc hơn cả hổ mang chúa, vô phúc bị nó mổ, chỉ vài giờ
sau là đóng ván. Gan lỳ như Doãng mà cũng sợ chết khiếp, sau lần ấy,
không dám thọc tay vào ống như trước nữa.
Sau khi chia gia tài, Doãng
được năm sào ruộng đồng Gà. Chân ruộng này thuộc loại thượng đẳng điền,
năm hai vụ, làm chơi ăn thật nhưng phải cái mùa khô thường khan nước.
Đến vụ cày cấy, Doãng một mình xoay trần ra không thèm nhờ ai. Giai
thoại hay được bà con nhắc đến là có lần hắn tát nước với cọc. Quê tôi
có lệ tát nước gầu dai, mỗi bên một người thành cặp. Những sòng tát cao
người ta đóng đến ba bốn cặp. Thích nhất là tát nước đêm trăng. Từng
đôi, kẻ bên này, người bên kia, đong đưa theo nhịp. Từng gầu nước lẫn
ánh trăng sóng sánh, chao theo một đường vòng cung rồi bất ngờ vãi tung
toé trên mặt ruộng, loang ra một màu trắng bạc. Chẳng biết có bao nhiêu
thanh niên nam nữ nên vợ nên chồng từ những đêm trăng tát nước huyền ảo
như vậy. Nhưng với Doãng thì khác. Hắn ghét cay ghét đắng lối vần công
và mọi kiểu chung chạ. Năm ấy hạn nặng. Như đã nói, đồng Gà thuộc diện
cao, nước từ ngòi máng chảy vào ít, các chủ ruộng phải thương lượng với
nhau tát theo giờ. Doãng nhận vào lúc nửa đêm, chắc là vì không muốn
thiên hạ nhìn thấy cung cách làm ăn quái gở của mình. Đợi cho mọi người
về hết, Doãng mới lấy hai chiếc cọc tre đóng bên kia sòng. Sau khi buộc
cố định dây thừng vào cọc, hắn thả gầu rồi vung tay chao nước. Khốn nỗi,
cọc tre hoàn toàn vô cảm, không có khả năng điều khiển linh hoạt như
bàn tay người, thành ra, gầu vừa lên được nửa chừng đã dốc miệng hết
sạch nước. Nhùng nhằng mãi chẳng ăn thua, tay thả ống lươn tức mình ném
cả cọc lẫn gầu xuống ngòi rồi nằm ngửa đếm sao. Đêm ấy thưa sao, trời
sáng mờ mờ. Gió đông nam phe phẩy khiến Doãng thiu thiu. Chợt có tiếng
cười từ xa. Doãng giật mình, lập tức bật dậy. Hắn vốn là kẻ bạo gan
nhưng giữa đồng không mông quạnh cũng thấy rờn rợn. Từ lâu, người ta đồn
cánh đồng này thường có Mẹ Hétb hiện hình thành thiếu nữ tóc trắng trêu
các bà các chị đi chợ sớm. Có lẽ mụ ta thật. Doãng nắm chắc cán cuốc và
từ từ quay lại... Không phải ma mà là một người con gái bằng xương bằng
thịt đang lại gần. Hắn mê ngủ chăng? Bởi vì người con gái đó chính là
Nhụ. Bố Nhụ là ông Trản, chuyên nghề quăng chài, máu rượu, một lần uống
say quá, vác chài ra ngòi Vạn, ngã xuống nước chết, để lại cho vợ ba cô
con gái. Con bà Trản cô nào cũng phục phịch, hay lam hay làm và mắn đẻ.
Cô chị và cô út đã lấy chồng, có con, riêng Nhụ ưa nhìn nhất lại chưa
cùng ai. Nhà Nhụ chỉ cách nhà Doãng một quãng. Đêm ấy, biết Doãng mang
cọc với gầu đi, cô ta cũng giả đò ra thăm ruộng nhà mình.
Nhìn thấy Nhụ, Doãng sững người. Hắn có tật nói lắp, mãi mới hỏi được một câu hoàn toàn vô nghĩa:
- Cô... cô là... là... người hay...ma?
Cô hàng xóm khẽ cười, giọng ỡm ờ:
- Là ma đến tát nước hộ người đây. Cái gầu có tội gì mà quẳng nó xuống ngòi? Nào, lội xuống vớt lên, đây tát cho...
- Thật chứ? Doãng có vẻ không tin lại hỏi một câu rất thừa.
- Ai nói dối làm gì, mau lên kẻo trời sáng người ta bắt gặp...
Khỏi
phải nói, đêm hôm ấy Doãng cảm động đến mức nào. Hai người mải tát quên
cả thời gian, đến lúc vợ chồng nhà Quýnh xách gầu ra đòi sòng mới biết
nước đã tràn bờ...
Mấy hôm sau, lúc làm đồng về, gặp Nhụ ở gốc đa, Doãng lén cầm tay hỏi khẽ:
- Nhụ có bằng lòng về ở với tôi không?
Cô gái tỏ ra khá bạo dạn:
- Thích thì nhờ người mang trầu cau sang nói với mẹ người ta...
Hắn
nhờ bà Cõn làm mối thật. Hơn tháng sau thì cưới. Đám cưới của vợ chồng
hắn thế mà đông, có điều toàn khách nhà gái. Họ nhà trai không có ai kể
cả anh em Doạng Doan.
Cưới nhau chưa được một năm, Nhụ đẻ sinh đôi
hai thằng con trai. Doãng thích lắm đặt tên là Dọng và Dõng. Hai thằng
giống nhau như hai giọt nước, người ngoài không thể nào phân biệt được
thằng nào là anh, thằng nào là em. Còn bé mà chúng nghịch hơn cả quỷ sứ.
Trong nhà có thứ gì dễ vỡ đều phải treo cao, sểnh một chút là các ông
nhóc moi ra, nghịch chán chê rồi đập. Khi đã choai choai, Dõng và Dọng
toàn gọi nhau bằng mày tao, không đứa nào chịu đứa nào. Nhiều hôm hai
anh em đánh nhau chảy cả máu mồm máu mũi. Có bận hai thằng bảo nhau rút
rơm nướng khoai. Lửa cháy to quá bén sang cả nhà bếp. Doãng tức lắm, bắt
nằm sấp vụt mỗi đứa ba roi đau quắn mông nhưng chỉ được một lúc lại
chứng nào tật ấy.
Dọng và Dõng khá đẹp trai, nói năng lưu loát chứ
không ngọng líu ngọng ló như bố. Điều giống bố duy nhất ở chúng là thói
bán giời không văn tự. Dân làng Yên vốn ghét thói ba hoa thường nói sau
lưng Doãng là “giỏ nhà ai quai nhà nấy”.
Cuối năm năm chín, làng Yên
thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Doãng dứt khoát không viết đơn mặc dù
cán bộ xã đã nhiều lần vận động. Hắn lý sự:
- Vào hợp tác xã nông
nghiệp là hoàn toàn tự nguyện. Chủ trương của Đảng và Chính phủ là như
vậy. Ai không muốn vào thì thôi, vì sao các ông cán bộ lại ép bà con?
Ông chủ nhiệm coi Trịnh Doãng là dân đầu mấu, khó cải tạo tư tưởng liền tuyên bố:
- Những đối tượng chống lại chủ trương chính sách của cấp trên, ban quản trị sẽ trả ruộng ở đồng Mả Đá.
Khu
Mả Đá là địa giới giữa hai xã An Trạch và An Nhân, bỏ hoang đã nhiều
năm, đưa các hộ cá thể đến đấy khác gì bắt đi đày. Doãng nuốt nước bọt
đến ực, nghiến răng, cắm phập lưỡi dao phát bờ, dõng dạc tuyên bố:
- Ruộng này là cha ông họ Trịnh để lại chứ không phải của vớ được hồi cải cách nhá. Kẻ nào động vào một hòn đất là ăn đòn.
Không
hiểu ban quản trị sợ Doãng hay là họ không thèm chấp thằng khùng mà các
hộ cá thể khác đã tự nguyện chuyển đến vùng đất mới, riêng mấy sào
ruộng của Doãng vẫn ngang nhiên “ngự” tại khu đồng Gà như cái gai trước
mắt trêu ngươi nhà chức trách. Nhưng Doãng sức mấy thi gan được với tập
thể. Hợp tác xã chi công điểm đào đắp hệ thống mương máng thuỷ lợi dẫn
nước vào ruộng. Hắn là dân tự do chẳng thuộc tổ chức đoàn thể nào, bị
“cấm vận” ngay từ vụ đầu tiên. Chẳng nhẽ cứ nằm đấy chờ nước trời trong
khi trời lại đang đại hạn. Ruộng của vợ chồng hắn đã nứt chân chim, lúa
héo đến nơi. Nóng ruột quá, nửa đêm thức dậy, Doãng lẻn ra đồng. Hắn
đang hì hục tháo trộm nước thì cánh cờ đỏ tuần tra bắt được. Nói mãi
Doãng không nghe, tay đội trưởng sấn vào giằng cuốc đắp lại bờ bị hắn
tống cho một quả vào quai hàm. Phải vất vả lắm họ mới điệu được gã “
thủy tặc” về trụ sở hợp tác xã. Chuyến ấy Doãng bị giải lên công an
huyện làm khách của đám muỗi vằn mấy đêm. Không biết ở cơ quan bảo vệ
pháp luật người ta nói những gì mà sau hôm được thả, dân xóm Rộc thấy
hắn lử khử như tù mới xuất trại, đến ban quản trị xin đổi ruộng.
Vợ
chồng Doãng xoay trần ra với mấy sào ruộng xấu. Hắn sang cồn Láng cắt lá
về làm phân xanh, còn Nhụ quẩy đôi quang sảo khắp làng nhặt phân trâu
bò bón ruộng. Không có hạt đạm nào mà lúa của hắn tốt bời bời, năng suất
gấp mấy lần hợp tác xã. Khổ nhất là hồi chưa mua được trâu, Doãng phải
nai lưng kéo cày. Hai vợ chồng hắn, người đi trước, kẻ bước sau, nhũng
nhẵng mấy ngày mới làm xong đất. Ý chí quyết tâm làm giầu của Trịnh
Doãng thật đáng nể. Trong có mấy năm, hắn vừa làm được nhà ngói ba gian
xây gạch chín, tậu được con nghé, lại bổ sung dân số cho làng Yên hai
thằng con trai làm cho chủ nhiệm Tào Văn Hỗ tức điên lên. Lão bèn triệu
tập cuộc họp ban quản trị khẩn cấp chuyên bàn về lĩnh vực ao, hồ, đầm,
ngòi. Sau hai ngày cãi nhau khá căng thẳng, cuối cùng ban lãnh đạo cũng
ra được nghị quyết với nội dung cơ bản như sau: “Các diện tích mặt nước
trong làng và ngoài đồng đều thuộc quyền sở hữu tập thể, cấm mọi hình
thức đánh bắt cá. Ai vi phạm sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ”.
Thông báo trên được gã Tuyển Què trong ban Cờ Đỏ kẻ chữ son lên bảng tin
ngay cổng làng và trước trụ sở hợp tác xã. Ngoài ra, mỗi ao chuôm thùng
vũng còn được cắm biển gỗ viết sơn đỏ dòng chữ ngắn gọn: “Cấm mọi hình
thức đánh bắt cá”.
Xã viên kháo nhau, phen này Trịnh Doãng hết đường
làm ăn. Những kẻ ghen ăn tức ở nhìn ngôi nhà ngói đỏ của hắn nhếch mép
cười nhạt. Thế nhưng, biển cấm cắm hôm trước, sáng hôm sau vợ Doãng vẫn
có lươn mang ra chợ Tổng bán. Chủ nhiệm Hỗ cáu tiết gọi trưởng ban bảo
vệ ra lệnh:
- Đêm nay cậu cho anh em đi kiểm tra một lượt các ao
trong làng, nếu gặp tay Doãng, không nói lôi thôi, cứ điệu cổ về đây,
tội vạ đâu tôi chịu.
Phải đến tối thứ ba cánh dân quân mới tóm được
Doãng trong khi hắn đang lúi húi gài ống ở cầu ao nhà ông Phó Duyệt.
Chẳng nói chẳng rằng, thằng Cửu và thằng Hiệp quàng ngay dây thừng vào
cổ nạn nhân , trói nghiến lại dong về uỷ ban xã. Hắn vừa chửi vừa la :
- Ới dân làng ơi! Chúng nó trói người...
Doãng
bị vứt nằm queo ở nhà kho suốt một đêm. Bên ngoài có hai dân quân cầm
súng đứng canh. Sáng hôm sau, chủ nhiệm Hỗ, phó chủ tịch Trần Sớ, trưởng
ban bảo vệ Tiệp Cò cho dẫn Doãng vào trụ sở hỏi bằng giọng đắc thắng:
- Anh có biết vì sao bị bắt không?
Doãng lừ mắt, điểm hết lượt các vị chức sắc, giọng ráo hoảnh:
- Các ông bắt trói người vô cớ là vi phạm pháp luật.
-
Đề nghị anh ăn nói nghiêm chỉnh! - Chủ nhiệm Hỗ lên giọng răn đe - Vậy
anh có biết hợp tác xã đã cấm mọi hình thức đánh bắt cá không?
- Biết. Doãng nói cộc lốc.
- Tại sao vẫn cố tình vi phạm?
Doãng nhếch mép cười gằn:
- Tôi không bắt trộm cá của tập thể mà là bắt lươn. Thưa các ông cán bộ, lươn không nằm trong danh mục cấm.
-
Anh, anh... láo, còn già mồm cãi hả? - Chủ nhiệm Hỗ bị cú điểm huyệt
đâm ra đuối lý nhưng vẫn cố nói liều để vớt vát sĩ diện. - Lươn cũng
là... cá thuộc tài sản hợp tác xã.
- Này các ông! - Doãng lại hếch
cặp môi cá ngão về phía chủ nhiệm hợp tác xã - Các ông ra văn bản cấm
mọi hình thức đánh bắt cá mà lại cho dân quân rình trói thằng thả ống
lươn, thế có phải là phường lừa đảo không? Được, tôi sẽ theo kiện vụ này
lên tỉnh, tỉnh không xong sẽ vác đơn lên trung ương.
Từ chuyện ấy,
Ban quản trị hợp tác xã làng Yên đâm ra ngại đụng chạm với Doãng. Thấy
chính quyền lờ đi, hắn mặc sức tung hoành, đồng thời nghiên cứu, nâng
cao kỹ thuật bắt lươn lên hàng công nghệ. Có lần Doãng được đích thân
chủ nhiệm Hỗ đặt hàng hai trăm năm mươi con. Chuyện có vẻ khó tin nhưng
hoàn toàn là sự thật. Dạo ấy làng Yên nổi tiếng khắp cả nước về làm thủy
lợi nội đồng, được ông bí thư tỉnh uỷ dẫn một đoàn khách tham quan cùng
mấy chục nhà báo “quốc doanh” về thăm. Ông bí thư vốn thích món lươn om
củ chuối. Vậy là Trịnh Doãng được triệu đến. Người hắn thì nhếch nhác,
bẩn thỉu nhưng các món đặc sản do hắn chế biến từ lươn thì ngon không
chê vào đâu được. Trước khi về tỉnh, ông bí thư bắt tay và ban cho hắn
lời khen, thậm chí còn mời hắn đến nhà chơi nếu có dịp về thị xã. Vậy
là, bỗng chốc tay thả ống lươn trở nên nổi tiếng. Cánh cán bộ xã từ đấy
có ý gờm cho dù hắn chỉ là anh nông dân cá thể, một đối tượng mà đáng lý
ra mọi người luôn phải cảnh giác.
Dọng và Dõng chưa học hết lớp bốn, đã muốn bỏ, Doãng gật đầu bảo các con:
-
Họ Trịnh nhà mình không có mả làm cán bộ, học lắm cũng vô ích. Tốt nhất
chúng mày cứ theo nghề bắt lươn. Thứ này thời nào cũng cần, tuy chẳng
giầu nhưng cũng không đến nỗi nhếch nhác như đám xã viên ngày công hai
lạng thóc.
Đầu năm bảy ba, thằng Dõng có giấy gọi nhập ngũ. Doãng vừa
ở đồng về, vẫn còn mặc quần đùi, tay chân lấm bùn đất, chạy đến nhà xã
đội trưởng sừng sộ:
- Nó mới mười bảy tại sao các ông đã bắt lính?
Xã đội trưởng Quản văn Bền biết tính Doãng, mở ngăn kéo , lấy bản danh sách sao từ sổ hộ khẩu đặt trước mặt hắn:
-
Đến tháng ba năm nay, hai cháu Dọng, Dõng vừa đủ mười tám. Số liệu tôi
lấy bên uỷ ban, ông xem. Xã ta đợt này cuối tháng tư mới tuyển quân
nhưng chúng tôi báo trước để bà con có sự chuẩn bị.
Doãng hiểu ra nhưng chưa chịu về ngay. Hắn ngẫm nghĩ một lúc rồi nhấm nhẳng bảo xã đội trưởng:
- Nói thật, thích thì tôi cho thằng Dõng thậm chí cả thằng Dọng nữa đi bộ đội, còn không, thách các vị đấy...
-
Ông nói toàn giọng phản động. - Xã đội trưởng xua tay bảo - Đi bộ đội
là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi công dân trong sự nghiệp giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, ông không giữ mồm là vào... nhà đá.
Doãng lắc lư mái tóc tổ quạ, nghểnh cái cổ ngẳng như cổ cò ruồi, lý sự cùn:
-
Vậy tôi hỏi nhá, ông Sầm, chủ tịch xã, có hai thằng con đều đã quá tuổi
mười tám, sao chúng không đi làm “nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người
dân” mà lại sang Liên Xô học? Hơn nữa, từ trước đến nay nhà nước có quan
tâm gì đến những hộ cá thể đâu mà bắt con người ta đi lính?
Xã đội trưởng không thể kiên nhẫn giải thích được nữa, khoát tay bảo:
-
Nói như ông thì mất nước từ lâu rồi. Xã hội phân công mỗi người một
việc, thắc mắc cái gì. Ai bảo hai đứa nhà ông chỉ học đến lớp bốn rồi
bỏ?
Có điều Trịnh Doãng không ngờ đến là, thằng Dõng vừa nhập ngũ
được bốn tháng thì đến lượt thằng Dọng, chẳng biết ai xui, đã dấu bố mẹ
làm đơn tình nguyện gửi lên huyện đội. Bà Nhụ thương con, ngăn không
được, khóc vật vã mấy ngày liền, hắn thản nhiên bảo:
- Nhà mình những
bốn thằng con trai, cứ để nó đi cho thoả chí tang bồng. Mà tôi nói
thật, có giữ cũng chẳng được. Họ tuyên truyền giỏi lắm, nghe nói bên xóm
Chùa có mấy đứa viết đơn bằng máu...
Hôm tân binh lên đường, Doãng
tổ chức bữa liên hoan, các món ăn toàn chế biến từ lươn. Lúc thằng Dọng
khoác ba lô lên vai, hắn rơm rớm nước mắt dặn:
- Đã đi thì phải đi đến nơi đến chốn, hễ mà đào ngũ thì đừng có vác mặt về nhà...
Bà vợ nghe chướng tai vội trách chồng:
- Ơ kìa! Sao chưa chi ông đã mắng con thế?
Hắn lấy những ngón tay xù xì quệt nước mắt chống chế:
- Tôi chỉ... dặn nó chứ mắng... đâu mà.
Thằng
Dọng vào Nam sau em ba tháng. Hơn một năm hai đứa chẳng thư từ gì. Vợ
chồng Doãng sốt ruột lắm. Vào đúng hôm thanh minh, Doãng choáng người vì
có giấy báo thằng Dọng mất tích. Mất tích hay đầu hàng địch? Câu hỏi cứ
lởn vởn trong tâm trí hắn. Không ai bảo ai, từ cán bộ đến xã viên làng
Yên đều mặc nhiên nhìn vợ chồng hắn như là bố mẹ của kẻ phản bội. Ban
đêm, thỉnh thoảng thức dậy, linh tính báo cho hắn biết, hình như có kẻ
nào đó rình mò sau nhà.
- Mặc mẹ chúng mày! - Doãng làu bàu chửi, cốt
để những vị khách không mời nghe thấy - Có giỏi thì đêm nào cũng đến
đây canh trộm cho ông.
Nói thế nhưng hắn cũng mài sẵn cây mác, rót thêm dầu lạc vào chiếc đèn “ló”c để phòng bất trắc.
Cuối
năm bảy tư thằng Dõng có thư về. Nó được phong danh hiệu “dũng sỹ diệt
xe tăng” và tặng thưởng huân chương chiến công. Doãng mừng lắm, đem khoe
khắp xóm. Từ hôm ấy, hắn để ý không thấy có kẻ rình rập ban đêm nữa.
Giải
phóng miền Nam được một tháng, Thằng Dõng giải ngũ, mang theo chiếc
khung xe đạp và con búp bê nhựa gần bằng đứa trẻ mới đẻ. Còn thằng Dọng,
hết năm bảy nhăm, qua năm bảy sáu vẫn bặt vô âm tín. Cứ vài tuần một
lần, Doãng lại đạp xe lên huyện đội hỏi, và lần nào cũng vậy, người cán
bộ chính sách đều trả lời: “Chưa xác minh được”. Tuy không nói ra nhưng
trong thâm tâm, Doãng nghĩ thằng Dọng đã hy sinh mà đồng đội không tìm
thấy xác. Thật khổ cho nó. Con người ta chết được công nhận liệt sỹ, còn
con mình sao lại chết mờ ám thế. Những ngày tháng chờ đợi càng dài,
niềm hy vọng vủa vợ chồng Trịnh Doãng càng vơi. Gặp người làng, nếu ai
vô tình nhắc đến chuyện ấy là hắn nổi cáu:
- Ông đừng có mà xỏ xiên, nay mai người ta cấp bằng liệt sỹ cho thằng Dọng rồi khối đứa trắng mắt ra...
Doãng
già đi trông thấy. Chưa đến bốn nhăm mà tóc hắn đã lốm đốm hoa râm,
khuôn mặt nhằng nhịt những vết tàn nhang, bình thường vốn đã khó coi,
giờ nhăn nhúm như chiếc bị rách trông càng hãm tài. Đã thế, cặp môi cá
ngão dầy quá mức bình thường mỗi ngày một thêm dẩu ra, đẩy lưỡi về phía
sau, làm hắn nói năng rất khó khăn. Thỉnh thoảng Doãng lại hỏi thằng
Dõng:
- Mày gặp các ông chỉ huy đơn vị thằng Dọng người ta bảo thế nào?
- Con đã nói rồi, bố cứ hỏi mãi. Họ bảo anh ấy có khả năng bị địch bắt rồi chúng thủ tiêu.
-
Thế có khốn nạn không chứ! - Doãng thở dài thườn thượt - Đợi ít lâu nữa
rồi tao với mày phải vào trong ấy xem sao. Chẳng nhẽ họ lại vô trách
nhiệm với người lính như thế...
- Được rồi, con đi. - Thằng Dõng nhấm nhẳng - Nhưng bố mẹ phải cưới cái Nụ cho con.
- Mày ra điều kiện với tao đấy hả? - Doãng cáu, nói lập bập - Con với cái.
***
Nhiều năm qua đi...
Thằng
Dõng, thằng Dung, thằng Dị đã lấy vợ ra ở riêng. Ba thằng chẳng thằng
nào theo trọn nghề của bố. Dõng kiếm được ít vốn chạy tuyến biên giới
buôn hàng Trung Quốc. Dung cùng với mấy anh bạn nhận đấu thầu khu đồng
trũng thả cá và nuôi vịt đẻ tận quán Năm Gian. Riêng thằng Dị không chịu
cảnh đất chật người đông chỉ độc canh cây lúa đã dắt vợ vào Lâm Đồng
lập nghiệp. Doãng vẫn túc tắc thả ống lươn kiếm đồng ra đồng vào. Có
điều, bí mật công nghệ đã bị đánh cắp, làng Yên hình thành một đội ngũ
hành nghề khá đông, chuyên cung cấp hàng cho cửa khẩu Móng Cái, thành ra
lươn ít dần, thậm chí có nguy cơ tuyệt chủng. Nhiều lúc ngồi nhắm rượu
với lươn om riềng bên cạnh bà vợ kém mắt, Doãng than thở:
- Nghề của tôi mạt vận đến nơi rồi bà ạ!
Giữa
năm chín hai, Trịnh Doãng nhận được thư thằng Dọng từ Pháp gửi về. Vậy
là nó còn sống nhưng tại sao lại theo bọn “thực dân đế quốc”? Doãng giận
lắm, định xé thư đi. Thằng Dung vội ngăn lại:
- Thầy nóng tính quá, cứ đọc hết xem anh ấy nói những gì đã.
Doãng lườm con:
- Nó bỉ mặt tao. Chuyện này mà lộ ra thì nhục với cả làng.
Dung đọc xong, mặt ông bố tươi tỉnh hẳn lên. Hoá ra sự việc cũng đơn giản chứ không phức tạp như Doãng nghĩ.
Đầu
năm bảy tư, trong một trận đụng độ với tiểu đoàn 7 thủy quân lục chiến
quân đội Sài Gòn, đại đội 12 bị đơn vị thiện chiến này tập kích gây tổn
thất nghiêm trọng. Trung đội của Dọng toàn lính mới, tuy chiến đấu dũng
cảm nhưng chưa có kinh nghiệm với những tình huống phức tạp ở chiến
trường, thương vong khá nhiều. Số còn lại, trong đó có Dọng, bị trực
thăng hốt đưa về căn cứ Phước Tân. Tại đây, phần lớn tù binh phải lên
rừng chặt gỗ hoặc khai thác đá ở sườn núi Ông Tượng. Một lần đi làm,
nhận thấy toán quân cảnh giám sát có vẻ lỏng lẻo, nhóm sơn tràng của
Dọng giết chết một viên thiếu uý, trói mấy người lính, nhét giẻ vào mồm
rồi rủ nhau trốn trại. Nhưng cuộc tháo chạy thất bại, ngay đêm hôm ấy,
tất cả đều bị bắt lại. Dọng nhận hết về phần mình, như thế có nghĩa là
chấp nhận hình phạt xử bắn. Viên trung tá giám thị trại giam, người gốc
Phát Diệm, thấy gã Việt cộng trẻ măng, vẻ lanh lợi, lại có hành động
nghĩa hiệp, trong lòng phục lắm liền gợi ý:
- Tôi có thể miễn tội chết cho cậu nhưng với một điều kiện.
- Điều kiện gì? - Dọng nhìn viên sỹ quan với vẻ cảnh giác, hỏi cộc lốc.
- Đơn giản thôi, làm lính hầu cho tôi.
Dọng nghĩ một thoáng rồi khẽ gật đầu:
- Được... nhưng xin ông đừng xử bắn những người kia.
- Cậu là thằng đầu têu mà tôi còn tha huống hồ anh em khác.
Cuối
tháng hai, viên trung tá có dự cảm cuộc chiến sắp tàn, nền Đệ nhị cộng
hoà khó mà đứng vững, nếu không thoát ra mau sẽ có nguy cơ chìm thuyền,
bèn xin giải ngũ đem cả vợ con sang Pháp. Ông ta bảo Dọng:
- Cậu được tự do nhưng theo tôi nên xác lập cho mình một tương lai chắc chắn ngay từ bây giờ.
- Trung tá nói sao?
-
Từ giờ đến lúc kết thúc chiến tranh có lẽ cũng chẳng còn mấy, và ai
biết chuyện gì sẽ xẩy ra đối với những tù binh như cậu, cho nên, tốt
nhất là di tản cùng gia đình tôi.
- Nhưng còn bố mẹ, anh em tôi ở miền Bắc?
-
Nhà cậu còn những ba gã con trai đúng không? - Viên cựu giám thị kiên
nhẫn thuyết phục - Vả lại, Bắc Việt đang đói và có lẽ còn rất lâu mới
thoát ra khỏi ảnh hưởng tai hại của cuộc nội chiến chó má này. Khi đã có
chút tài sản trong tay, về nước lúc nào chả được.
Nghe ông ta tán, thấy cũng có lý, Dọng gật đầu bảo:
- Trung tá nói đúng, ông bố tôi suốt đời làm nghề thả ống lươn, có nằm mơ cũng không dám nghĩ đến chuyện sang Pháp.
Mười
mấy năm qua, Dọng biết quê nhà đã có nhiều thay đổi. Chính quyền hiện
tại không còn định kiến nặng nề với những người vì hoàn cảnh bắt buộc
phải rời tổ quốc kiếm sống ở phương trời xa. Nó dự định sẽ về thăm quê.
Mấy
tháng sau, Dọng đưa vợ con về thật. Vợ nó chính là con gái viên trung
tá giám thị trại tù binh Phước Vĩnh năm xưa. Vợ chồng Dọng ở nhà một
tháng. Nó biếu họ hàng quà cáp chu đáo, giúp vốn các em làm ăn và cho bố
mẹ đủ số tiền xây ngôi nhà hai tầng đẹp nhất làng Yên. Trước khi về
Pháp, Dọng ra ủy ban xã xin góp năm ngàn dollars để xây trạm xá.
Trịnh
Dọng nghiễm nhiên trở thành Việt kiều yêu nước. Lão Doãng bao năm khổ
sở vì cái nghi án mất tích của con trai, nay được mở mặt mở mày với hàng
xóm, trong lòng vô cùng tự đắc.
Sau tết nguyên đán, Dọng gửi giấy
bảo lãnh cho bố sang Pháp chơi mấy tháng. Lão Doãng đến Paris cứ như
người từ hành tinh khác xuống vậy. Gặp cái gì lạ lão cũng “ồ”, “à” hệt
như dân làng Yên ra tỉnh nhìn thấy những manequind ăn mặc hở hang trong
tiệm may đo. Thằng Dọng là chủ cửa hàng cơm chuyên bán những món đặc sản
Việt Nam, nổi tiếng nhất là lươn, ếch, ba ba. Lão không thể hiểu, ở cái
xứ sở cách quê nhà cả chục ngàn cây số, quanh năm giá lạnh này mà chúng
vẫn kiếm được hàng thùng lươn béo mẫm, phục vụ khẩu vị của các thượng
đế tha hương.
Sang đây với con, Doãng đâm ra nghiện món bánh mỳ sốt
vang thịt bò. Người lão đẫy ra, những vệt rỗ nhằng nhịt - di chứng của
căn bệnh đậu mùa - hình như đang lặn dần. Khuôn mặt nhăn nhúm vốn dĩ khó
coi của lão giờ giãn ra, bóng nhẫy, linh động, đầy sinh khí. Hết đi
thăm các danh lam thắng cảnh lại ở nhà bật máy thu hình (toàn người Tây,
chữ Tây) xem mãi cũng chán, Doãng đòi về. Vợ chồng Dọng giữ mãi không
được đành phải chiều ông bố trái tính.
Về đến nhà, như lời thằng
Dọng dặn, Doãng mang tặng ủy ban bảy ngàn dollars để xây trụ sở theo sự
gợi ý của ông chủ tịch vốn là bạn đánh giậm với nó thuở trước. Số còn
lại, lão bàn với vợ gửi ngân hàng lấy lãi. Từ đấy họ Trịnh bỏ hẳn nghề
thả ống lươn.
Trụ sở ủy ban hai tầng, mặt tiền ốp đá, mái chóp, nổi
tiếng hàng huyện. Để ghi nhớ công lao của Trịnh Doãng có được người con
làm vẻ vang cho quê hương, ông chủ tịch đề nghị dựng tượng lão ở ngay
phía sau khuôn viên trụ sở. Công trình hoàn tất, rất nhiều người đến xem
và bình phẩm. Đó là một hình người thô kệch bằng xi măng cốt thép, đứng
ưỡn ngực trên bệ cao, vai khoác chùm ống lươn, chiềng ra trước thiên hạ
bộ mặt vênh váo, do nhà điêu khắc Quang Đệ nổi tiếng lãng tử của Hội
văn nghệ tỉnh sáng tác.
Dạo này, bụng Trịnh Doãng có xu hướng mỗi
ngày một to bởi từ khi giải nghệ, ít vận động, tỳ vị đâm ra ngưng trệ.
Vì thế, sáng nào lão cũng đạp chiếc xe Peugeot cánh trả qua lối cổng
chùa Vĩnh Hưng, lên đường trục liên xã rồi sang Phố Phủ làm vại bia cỏ,
bát tiết canh và tô phở tái. Vừa ăn, lão vừa thả lời ong bướm tán tỉnh
bà chủ quán phốp pháp còn khá trẻ, có cặp mắt hiếng.
Trên đường về,
Doãng đạp xe thật chậm rãi như người tập thể dục dưỡng sinh. Đến trụ sở
ủy ban, thế nào lão cũng vòng ra phía sau vườn ngắm tượng của mình. Có
lần, ngắm xong lão chép miệng:
- Cái tay Quang Đệ nói phét một tấc đến giời. Tượng chẳng giống mình tí nào. Thật phí tiền...
Đặng Văn Sinh
Ghi chú:
a - Là loại nứa ống to trên rừng, dân sơn tràng khai thác rồi đóng bè chuyển về miền xuôi bán để đan cót hoặc làm ống lươn.
b - Một loại ma đàn bà hay trêu người trong truyền thuyết dân gian vùng đồng bằng sông Hồng.
c - Đèn thắp bằng dầu lạc hoặc dầu trẩu, mỡ lợn, đặt trong hộp có mặt kính là một khối chỏm cầu dày khuếch đại ánh sáng.
d - Giá treo quần áo được làm theo hình người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét