Như bao bà mẹ khác, mẹ tiễn con gái về nhà chồng cũng sụt sịt lấy tay áo lau nước mắt. Mọi người xúm lại kêu, gả con về chợ, mắc gì mà khóc. Trong lòng những bà dì bà thím ở quê, về chợ nghĩa là ăn sung mặc sướng, đèn đóm sáng trưng, thiếu thứ chi chỉ cần bước ngay ra cửa là có, “mãn năm móng chân không dính miếng sình”.
<!>
Nhưng chỉ bữa sau đám cưới, cô dâu mới đã phải xoắn
tay áo hì hụi tát nước, kê cao những vật dụng trong nhà. Sau trận mưa
khuya đường sá biến thành sông, nước tràn vào lòng những căn nhà thấp
hệt thung lũng, sau mấy bận người ta cơi cao mặt đường chống ngập. Nước
mưa và triều cường cứ dùng dằng mãi trên đường không chịu rút. Cô thấy
cái cảnh mình xoắn quần lội lò dò đi giữa rác rưởi và nước cống rảnh đen
ngòm, có khác gì ở quê những ngày lụt. Thành phố cuối năm, những bữa
tiệc nước không mong đợi cứ theo gió chướng mà về.
Nhưng cô dâu mới không vỡ mộng, cái nơi chốn cô vừa
trở thành nông dân chính thức không lạ gì sau năm năm trọ học. Cũng có
thể cô đã từng hơi thất vọng, vào những ngày đầu khăn gói đến đây. Thấy
chợ cũng như cái xóm quê mình, mưa đầu mùa cũng gặp mấy con cá rô ốm ròm
vác cái bụng lặc lè trứng lóc qua sân nhà trọ. Chạng vạng ễnh ương,
nhắc nheng kêu sầu trời đất. Có bữa dậy thấy rắn nước nằm khoanh tìm hơi
ấm trong giày. Đường sá quãng cuối năm thành sông, lút nửa vành bánh xe
đạp. Ở cái nơi là chợ, lâu lâu thấy một ông già lùa đàn bò ngang qua,
nhiều khu dân cư mới người tới chưa đông, cỏ dại mọc đầy. Cái anh trọ ở
đầu dãy, suốt ngày vác trúm đặt lươn quanh quanh mấy mương cống, mà đủ
sống.
Già bán bánh bò xốp ở ngã tư đường, anh sửa
bếp ga, ông già đổi nước mưa cũng nghèo cũng ướt như dì Út Chót làm cỏ
mướn kế bên nhà mẹ ở quê. Chính những con người lam lũ ấy khiến cô sinh
viên trẻ khi đó cảm giác thật rõ ràng, thành phố cũng là một cái làng
không quá khác biệt với chốn quê nơi cô trải qua suốt thời thơ ấu. Đời
sống chợ - quê trong cô không quá chênh lệch đến nỗi ập vào ngộp thở
như mỗi lần đi qua cây cầu, một bên rạng rỡ ánh đèn, bên kia là khu nhà ổ
chuột chằng đụp, bóng đèn dây tóc đỏ lói. Nghe nói để giải tỏa hết khu ổ
chuột trên sông đó, cũng phải chục năm nữa. Nghĩa là thêm chục năm cây
cầu bất đắc dĩ làm biên giới. Và cả thành phố không hiếm những đường
biên kiểu vậy, hữu hình hoặc vô hình. Dễ gặp những cơ quan, dinh thự
thênh thang, cách đó chừng trăm mét là ngõ hẻm lầy lội, khuất tối. Dễ
gặp một người ve chai ngồi ăn vội gói xôi trước cửa hàng sang trọng rực
ánh đèn.
Hào nhoáng, mơ tưởng như lớp vôi vữa, cứ dần rụng
rơi. Thành phố không phải thiên đường cho tất cả cư dân lặn ngụp trong
lòng nó.
Vài ba lần trong năm, thành phố có chút rộn ràng
với những chiếc xe quảng cáo nhạc hội. Thứ nhạc hội mà bọn trẻ con len
lỏi gần cánh gà vẫn thường nghe ca sỹ hạng ba văng tục, và các anh chị
được quảng cáo là ngôi sao hàng đầu ấy vẫn hát oang oang kể cả khi rớt
micro. Nội dung thì mỗi người một nẻo, sến sang vọng cổ đủ cả. Những
buổi tối dằng dặc còn lại, khi nhạc hội dọn bãi rồi, đàn ông không biết
làm gì ngoài chuyện cụng ly trong quán nhậu, phụ nữ coi phim truyền hình
nhiều tập, trẻ con xem hoạt hình nếu khỏi phải tới những buổi học thêm.
Không rạp chiếu phim đúng nghĩa, không nhà hát.
Cô dâu mới chưa bao giờ che giấu ước mơ kiếm thật
nhiều tiền để chuyển đến thành phố lớn hơn, khi cô có con (như người ở
thành phố lớn đang tìm đường ra nước ngoài cho con cái họ). Những cuối
tuần cô sẽ đưa chúng đi công viên vẽ tranh, đi bảo tàng, hoặc xem kịch,
coi phim, may hơn có thể tham dự một vài buổi hòa nhạc ngoài trời. Những
thứ đó, cô nghĩ, đâu phải là quá xa xỉ với cư dân đô thị. Nhưng sao
người của cái thành phố tỉnh lẻ này phải chờ đợi quá chừng lâu.
Và trong lúc cô nỗ lực làm lụng kiếm tiền để nuôi
dưỡng một giấc mơ, thì các thím trong quê cũng dành dụm để đưa con cái
ra chợ học, với ước mong tụi nhỏ sớm thụ hưởng thứ ánh sáng thị thành.
Định nghĩa về thành phố với người quê thật giản dị, chỉ cần nhiều đèn và
nhiều khu mua sắm, có trung tâm sinh ngữ cho tụi nhỏ bôn ba từ lớp
chiều đến lớp đêm.
Nhưng cư dân xóm chợ nào đã trải qua những tối dài
nhàm chán không cách chi làm đầy, những khi khách xa đòi ngồi ở quán cà
phê ngắm mấy dòng sông mà thành phố đã quyết liệt giấu chúng sau những
dãy phố ken chật, những lần trẻ con níu áo hỏi ba ơi mình đi đây vậy,
lúc ấy, mới thấy thành phố vẫn chưa đủ sáng, thứ ánh sáng không đơn
giản chỉ là treo thật nhiều đèn màu chớp nháy.
Nguyễn Ngọc Tư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét