Ký giả này đã nhiều lần tự hỏi một cuốn lịch sử Việt Nam in năm 2075 sẽ nói gì về ngày 30 tháng Tư trước đó 100 năm?
Nhà
viết sử sẽ ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975 là ngày cuộc nội chiến đã chấm
dứt giết chết hai triệu người Việt; sau đó ba, bốn trăm ngàn người Việt
đã vùi xác trên Biển Đông khi tìm đường chạy trốn một chế độ độc tài
khắc nghiệt. Sách có thể ghi chú rằng dân số cả nước lúc đó khoảng 35
triệu.
<!>
Các sử gia sẽ so sánh: Cuộc Trịnh Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17,
18 là do hai dòng họ các tướng quân tranh quyền, chiến tranh kéo dài đến
vài trăm năm. Cuộc nội chiến thế kỷ 20 không lâu như lần trước, chỉ có
16 năm, từ tháng Năm năm 1959, khi toán quân Bắc Việt đầu tiên theo
đường Trường Sơn xâm nhập miền Nam. Nhưng số người chết cao gấp mấy chục
lần.
Chắc các nhà viết sử sẽ
phải nhìn rộng hơn để tìm hiểu cái gì gây nên cuộc nội chiến thứ nhì
này? Tìm đến gốc thì đó là một phần trong lịch sử của cả loài người, cái
gọi là “Chiến tranh Lạnh” giữa hai khối tư bản và cộng sản. Gốc rễ bắt
đầu là phương thức kinh tế tư bản phát triển vào thế kỷ 18 ở Âu châu,
đưa tới một phản ứng là lý thuyết Mác xít. Từ đó, có cuộc cách mạng năm
1917 thành lập một chế độ cộng sản ở nước Nga. Rồi thế giới chia hai,
nhiều quốc gia cũng bị cắt đôi theo hai ý thức hệ.
Trong lịch sử
Việt Nam thì cuộc nội chiến chấm dứt năm 1975 chỉ là một đoạn trong một
cuộc tranh chấp lâu dài hơn giữa hai chủ trương lập quốc sau khi thoát
nạn thực dân. Một bên là những người muốn đưa nước ta vào làm một thành
phần, một đội quân đi hàng đầu trong mặt trận quốc tế do Liên Xô lãnh
đạo. Bên kia là những người chủ trương lấy dân tộc làm mục đích chính
yếu, liên kết với các nước chống lại Nga Xô. Một bên muốn thiết lập chế
độ chuyên chính của đảng cộng sản, tổ chức kinh tế theo lối hoạch định
tập trung. Bên kia muốn tùy nghi học hỏi theo kinh nghiệm các chế độ
chính trị tự do dân chủ, với hệ thống kinh tế thị trường, cũng gọi là
kinh tế tư bản, có thể tùy nghi lựa chọn vì ở mỗi nước mỗi khác.
Nhưng
không phải bất cứ một nước Á và Phi châu nào cũng trở thành bãi chiến
trường cho hai khối cộng sản và tư bản tranh hùng giết hàng triệu người,
như ở Việt Nam. Ấn Độ không, Thái Lan không, các cựu thuộc địa như Phi
Luật Tân, Malaysia, Indonesia, vân vân, cũng không lâm cảnh tương tàn bi
thảm như nước mình. Những nước đã bị chia đôi như Đức, Hàn Quốc sau năm
1954, cũng không bị cảnh nội chiến kéo dài như ở Việt Nam. Có phải các
quốc gia này tình cờ, gặp may mắn hay chăng? Hay là giới lãnh đạo ở các
nước đó khôn ngoan hơn người Việt?
Vì vậy Việt Nam là một trường
hợp đặc biệt, và rất đáng thương. Sự kiện đầu tiên đẫn tới cuộc nội
chiến là ông Hồ Chí Minh lập đảng Cộng Sản Việt Nam, nhắm mục đích đưa
người Việt vào chủ nghĩa cộng sản, một tín ngưỡng duy vật. Ông theo
đường lối Stalin bên Moskva muốn dùng phong trào Cộng Sản Quốc tế mở
rộng ảnh hưởng của Nga ra khắp thế giới.
Lúc đảng Cộng Sản Việt
Nam ra đời (sau bị Stalin bắt đổi tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương), nước
Việt Nam đang bị người Pháp cai trị và bóc lột. Người Việt Nam đã nổi
lên chống Pháp suốt từ cuối thế kỷ 19. Tất cả mọi người Việt Nam yêu
nước đều chống Pháp. Tất cả đều mong đuổi người Pháp đi, xây dựng một
nước Việt Nam độc lập. Những chiến sĩ bị người Pháp hành quyết trong năm
đó là 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Các nhà cách mạng đều muốn
nước Việt Nam sau khi độc lập sẽ theo một chế độ dân chủ, tự do giống
như thể chế của nước Pháp sau các cuộc cách mạng 1789 và nước Trung Hoa
từ năm 1911.
Ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam nghĩ khác.
Họ nêu chủ trương rõ rệt là sau khi được độc lập thì sẽ thiết lập ở
nước ta một chế độ theo kiểu của Stalin gọi là “vô sản chuyên chính.” Họ
nhắm biến Việt Nam thành một phần của mặt trận vô sản thế giới chống
chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Theo ông Stalin, các khái niệm về quốc gia,
về tổ quốc là các tư tưởng lạc hậu.
Các người nghiên cứu có thể
thấy rõ ý nguyện của Hồ Chí Minh trong báo Thanh Niên do ông xuất bản ở
Quảng Châu. Ngày 18 tháng Mười năm 1925 báo này in trên tiêu đề khẩu
hiệu: “Vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết lại!” Đó là kết luận của bản
Tuyên ngôn Cộng Sản, do hai nhà triết học Đức, Karl Marx và Friedrich
Engels viết vào tháng Hai năm 1848. Câu này vẫn còn trên bia mộ của Karl
Marx ở nghĩa trang Highgate, London.
Ngày 20 tháng 12 năm 1926
ông Hồ viết trên báo Thanh Niên: “Cái danh từ tổ quốc là do các chính
trị gia đặt ra để đè đầu nhân dân ... để buộc những người vô sản phải
cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản.
Thực ra, chẳng có tổ quốc, cũng chẳng có biên giới.” Không có quốc gia,
không có tổ quốc, đó là quan điểm rõ rệt của ông Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản ra đời năm 1930 đặt cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước một ngã rẽ: Phải lựa chọn giữa khuynh hướng quốc gia, dân tộc và một chủ nghĩa quốc tế.
Ông Hồ Chí Minh đã chọn đường lối quốc
tế, sau khi “hãnh diện đã được giác ngộ” ở Pháp, rồi được huấn luyện các
kỹ thuật nghề gián điệp, tuyên truyền, ở Moskva. Nhiều nhà cách mạng
Việt Nam không đồng ý, họ chỉ nhắm mục tiêu giành độc lập dân tộc.
Từ
đó, ở nước ta có hai xu hướng chính trị đối nghịch, quốc gia và quốc
tế, mối xung đột càng ngày càng nặng nề. Khi thế giới chia ra hai khối
theo ý thức hệ tư bản và cộng sản, Việt Nam cũng chia làm hai, giống ở
Đức và Hàn Quốc. Vì vậy nước ta trở thành chiến địa cho hai thế lực quốc
tế, làm nơi thí nghiệm các loại vũ khí của Nga và Mỹ.
Các nước
Indonesia, Mã Lai, Phi Luật Tân không lâm cảnh tương tàn vì họ không có
những đảng cộng sản trung kiên và tàn bạo như ở Việt Nam. Những nhà cách
mạng xu hướng quốc gia ở các nước này không bị Cộng Sản sát hại trước
khi bắt đầu cuộc tranh đấu vũ trang đòi độc lập. Ở Việt Nam thì Đảng
Cộng Sản lo thanh toán tất cả những lãnh tụ quốc gia có uy tín, như
Trương Tử Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ, vân vân trước khi đánh nhau với
Pháp. Hồ Chí Minh cũng theo đúng chỉ đạo của Stalin, sát hại những chiến
sĩ Đệ Tứ Quốc Tế như Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu. Đảng
Cộng sản thành công vì họ dám vứt bỏ đạo lý, bất chấp các quy tắc pháp
luật, nói lời gian trá không ngượng miệng, giết người không ghê tay.
Các
nhà viết sử sau này có thể ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975 cũng là ngày
bắt đầu giai đoạn suy yếu của chủ nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam. Khi chiến
tranh chấm dứt, người dân có dịp so sánh hai chế độ ở miền Nam và Bắc.
Nhiều nhà trí thức nhìn thấy những dấu vết của một xã hội tự do tương
đối ở miền Nam, dễ thở hơn so với miền Bắc. Đảng Cộng Sản để lộ bộ mặt
thật, là một guồng máy cai trị bằng công an, độc tài, tham nhũng, bất
lực trước vấn đề hiện đại hóa đất nước. Cộng Sản Việt Nam khó biện minh
cho các chính sách chuyên chế, tàn bạo như cũ, phải thay đổi.
Đến
những năm 1980 thì đảng Cộng Sản Việt Nam quay đầu ngược lại, cũng chập
chững đi theo kinh tế tư bản như khi họ bắt đầu phát triển hồi thế kỷ
19. Cảnh sụp đổ của các nước cộng sản ở Âu châu càng giúp người Việt
thấy rõ những nhược điểm của guồng máy cai trị mà ông Hồ Chí Minh đã gây
dựng lên theo kiểu mẫu ông học ở Nga xô.
Người học lịch sử sau
này sẽ tự hỏi tại sao chế độ đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau ở các
nước Đông Âu và Nga, để dân Việt Nam được sống tự do sớm hơn, có cơ hội
phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn? Vì một guồng máy chuyên chính,
độc quyền rất khó thay đổi. Những người nắm quyền trong tay sẽ không bao
giờ muốn bị giảm bớt, đừng nói đến bị mất quyền. Hệ thống công an được
nuôi dưỡng để bảo vệ quyền hành cho các đảng viên, họ nói thẳng rằng
“Đảng Còn thì Mình Còn.” Hệ thống kiểm soát các nguồn thông tin khiến
người dân chỉ còn biết lo nhu cầu “cơm áo gạo tiền,” không nghĩ tới ước
vọng nào cao hơn. Nếu nới lỏng hai gọng cùm kiểm soát này, dân Việt nếm
mùi rồi đòi thêm tự do thì các đảng viên sẽ mất hết ưu quyền, không thể
ngồi trên đầu dân mãi được.
Đến năm 2075 người Việt đọc lịch sử
nước mình sẽ thấy Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, thật đáng tiếc. Giữa
thế kỷ 19 khi bắt đầu tiếp xúc với Tây phương, nếu chính quyền nhà
Nguyễn biết canh tân đất nước, thì chắc nước mình đã khá, nếu không tiến
nhanh bằng Nhật Bản thì cũng phải theo kịp Thái Lan. Vào cuối thế kỷ
thứ 20 nếu chế độ cai trị thay đổi toàn diện và nhanh chóng sau năm 1990
thì chắc nước Việt Nam không đến nỗi thua kém các nước lân bang như Mã
Lai, Cam Bốt, Phi Luật Tân. Nếu Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn tại thì bây
giờ cũng có thể tiến gần bằng Đại Hàn Dân Quốc hay Đài Loan. Sẽ không
đến nỗi người dân hãnh diện kiếm được tiền nhờ làm công nhân lắp ráp
trong cơ xưởng của Sam Sung hay Foxconn, mà khi họ cần đến một cây đinh
ốc mình cũng không cung cấp được.Một bài học kinh nghiệm mà người Việt
Nam năm 2075 có thể nghĩ ra là đừng bao giờ chấp nhận sống dưới một chế
độ độc tài. Nhất là một chế độ dựa trên một hệ thống tư tưởng giáo điều,
hủ lậu, cố chấp, mà các vua quan cộng sản còn tham những gấp vạn lần
vua quan thời phong kiến.
Ngô Nhân Dụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét