Nhìn lạ, lạ hoắc lạ huơ, lạ như chưa gặp một lần nào, nơi chốn nầy, nơi chốn mà Nhự vẫn hằng nhớ tới bằng những giấc mơ mộng tưởng, nơi chốn mà suốt ba năm anh ấp ủ một cuộc trở về, trong đó có Đông Ngạn, có Hậu, có những bạn bè thân. Bây giờ thì Nhự chạm trán với nơi chốn ấy, thành phố với những dòng xe, dòng người bất tận.
<!>
Khi ra khỏi phi trường, Nhự ngơ ngác với khung cảnh mới, một hàng rào thân nhân đứng phía bên ngoài đón đợi, những vẫy tay, những tiếng kêu. Nhự nhìn thấy đứa con gái ngay khi anh đẫy chiếc xe chở vali ra cổng. Đứa con gái ở lại của anh ngày ấy thon tròn, nhẹ nhàng, dễ thương, bây giờ đen và gầy. Tiếng kêu ‘’ba, ba, ba‘’ Đông Ngạn đưa cánh tay cầm bó hoa vẫy vẫy. Anh đi lại phía con và ôm con vào lòng, ba năm, đứa con gái của anh nay đã là mẹ và anh đã lên chức ông ngoại, đứa con gái bây giờ như lạ, anh hôn và bế đứa cháu, baby bụ bẫm, Đông Ngạn nói, ‘’chào ngọai đi con.’’
Hậu đứng đằng xa vẫy vẫy tay, nàng mặc bộ áo dài màu xanh da trời trông Hậu trắng bạc, một thân hình mập, cái dáng dấp của những người đàn bà trên bốn mươi tuổi, dáng dấp mà hằng đêm anh vẫn tưởng tượng với những cơn mộng du ảo ảnh, những nhớ thương tha thiết, những đam mê chất ngất cõi lòng. Bây giờ thì Hậu đang đứng trước mặt anh bằng xương bằng thịt, Nhự vẫy tay gọi Hậu lại và cầm tay nàng, anh nói:
- Em khỏe không?
Hậu cười vui có chút xa lạ:
- Em khỏe, anh về với em là em vui, đi đường có mệt không anh?
Nhự nói:
- Đi máy bay mà mệt gì, anh về với em đây mà.
Những ngày ở Mỹ, hằng đêm như có môt tiếng gọi nào đó, u uất, trầm thống kêu gọi anh về, khi anh điện thoại về cho Đông Ngạn, Đông Ngạn nói, ’’Ba về với con nghe, con thèm gọi tiếng ba quá’’ và Hậu, ’’Anh về với em, em đợi anh muôn đời muôn kiếp‘’. Những tiếng đó qua đường dây điện thoại anh có cảm tưởng như một âm thanh nào vọng từ thinh không của sự hiển linh gọi kêu anh về, tụ tập những ước mơ từ trong tim, suy nghĩ trong hân hoan của một chốn nơi hạnh phúc, có người và người, có hàng xóm thân quen, những nẻo đường đầy cây lá, những vòm me xanh và quán nước xưa, hay một chốn thôn quê quạnh vắng nơi anh sinh ra và lớn lên đầy ắp một tuổi thơ dân dả. Anh chợt thấy ngày ở Mỹ dài hơn, những cơn nắng gắt mùa hè càng hừng hực hơn, những ngày rét cóng mùa đông lạnh lẽo đến tột cùng. Vào hãng làm thịt heo, đứng trên line, dây chuyền sản xuất, cùng với tụi Mỹ, tụi Mễ, tụi Bosnia, anh thường nói như một khoe khoang, ‘’Tau làm ở đây để dành tiền rồi tau sẽ về Việt Nam, quê tau, ở đó tau có đứa con gái, có cháu ngoại rất dễ thương và có một người đàn bà đẹp chờ tau ở đó, rất tuyệt vời.‘’ Anh làm một động tác ái ân và tụi Mỹ, Mễ cười phụ họa, chúng dơ cao ngón tay cái, nói, ‘’number one’’
Anh đến môt tiểu bang lạnh, đến là để ‘’cày’’ bạt mạng, để kiếm tiền, để quên đi nỗi cô đơn của cuộc sống một mình trên đất Mỹ, làm việc 8 giờ đồng hồ ban ngày rồi làm tiếp over time ban đêm, anh vẫn nghĩ, phải kiếm tiền, kiếm thật nhiều tiền để làm lại cuộc đời, để bù đắp lại những ngày cơ cực cũ.
Từ trại tập trung ra anh chỉ còn cái thân thể gầy gò ốm yếu, Ngọc, người vợ không chịu được sự cô đơn đã bỏ đi mất biệt, ba đứa con anh tản mát mỗi đưá mỗi nơi, chúng đi ăn nhờ ở đậu tấm lòng của hai bên bà con nội ngoại. Nhớ những ngày ở Việt Nam, ngày anh mới ra trại tập trung, đi chẻ củi thuê, đạp xe ba gát, đạp xích lô, vá xe đạp lề đường, nghề nào anh cũng trải qua và nghề cuối cùng là nghề đi bỏ hàng xe đạp. Những ngày vất vã bò lê bò càng trên chiếc xe đạp leo dốc với mấy giỏ hàng phụ tùng xe đạp đi bán dạo ở các cửa tiệm bán phụ tùng. Ngày tháng lê lếch, ăn uống ở những quán ăn bình dân tồi tàn nhất, tháng ngày cơm hàng cháo chợ. Bây giờ thì anh đã đi qua cảnh ấy, nó đứng phía sau anh mà nhiều lúc ngoảnh cổ ngó lại, anh thấy hình ảnh cũ như là một người khác chứ không phải là mình.
*
Mối tình của Hậu cũng như những mối tình khác đã qua đời anh. Một hôm anh đang lấy hàng ở chợ Tân Thành thì Phồn, người bạn cùng nghề, ghé qua nói:
- Tối nay đi uống cà phê nghe, tau giới thiệu cho một em, được lắm.
Nhự hỏi lại:
- Em thế nào?
Thằng Phồn.
- Múp lắm.
Nhự:
- Rồi, chiều tối 7 giờ nghe, tau đợi mầy ở chỗ cũ.
Phồn vừa nói vừa đạp xe:
- Nhớ đúng giờ, chỗ cũ.
Phồn và Nhự thân nhau vì cùng ở chung một trại tâp trung, hai đứa đã nằm bên nhau suốt mấy năm tù, đã chia xẻ ngọt bùi cay cực trong những hoàn cảnh đau thương nhất. Ngày Ngọc bỏ Nhự mà đi, không tiếp tế thăm nuôi Nhự nữa, thì Phồn ra tay cứu giúp, đùm bọc. Gia đình Phồn ở Sàigòn nên cứ ba tháng Phồn được tiếp tế một lần, Phồn đã tự ngỏ ý cùng Nhự ăn cơm chung. Ơi cái miếng ăn ở chốn lao tù thật là quý hóa, có những người được thăm nuôi, được nồi cá, miếng đường, gói thưốc lào thì tự động tách ra ăn riêng ngay vì sợ phải chia xẻ cho những người bạn ‘’con bà phước’’. Còn với Phồn thì không như vậy, được thăm nuôi bao nhiêu Phồn đều chia xẻ cho Nhự. Nhự cũng thấy áy náy lắm nên đã hơn một lần đòi tách ra, để Phồn được tự do, nhưng Phồn một mực bảo đừng ái ngại gì hết, vì vậy đối với Nhự, Phồn là người bạn đầy ân nghĩa. Ngày về hai đứa lại gặp nhau và rủ nhau đi làm chung. Phồn thấy Nhự cô đơn quá như vậy nên thường kiếm những “mối đàn bà độc thân” làm mai cho Nhự. Suốt mấy năm, đã mấy mối mà chẳng có cuộc tình nào thành đạt, có thể là Nhự tự khó với mình hay mối tình của người vợ cũ đã ám ảnh, khiến anh sợ sệt đàn bà, với đàn bà bây giờ, theo anh là bến tạm cho qua nỗi buồn đau mà thôi.
Chỗ cũ là quán cà phê Hồng, một quán nước có dãi sân rộng ở Thị Nghè mà hai đứa thường đến uống cà phê. Hôm đó, buổi chiều gần tối, trong bóng nhá nhem của ánh đèn màu, anh gặp Hậu. Qua lời giới thiệu của Phồn, rồi Phồn uống vội ly cà phê, lật đật bỏ đi. Người đàn bà ba mươi tám tuổi, vẻ mặt hiền, phúc hậu, cặp đồ bộ bằng vải gấm Thượng Hải màu xanh nhạt ôm bó sát lấy thân hình dong dỏng cao, khiến trông người đàn bà thanh thoát, trẻ trung. Nhự đã nói quanh quất đâu đó chuyện trên trời dưới đất, và khi sắp ra về anh hẹn với nàng một ngày khác ở đây. Lần thứ hai, sự ham muốn, sự thích mới lạ, sự đa tình đã khiến anh tán Hậu. Lần thứ ba ở trong một quán cà phê khác vắng hơn, quán cà phê có những ghế ngồi riêng biệt cho hai người, âm nhạc rất nhẹ như rót từ thinh không xuống, anh uống ly cà phê trong bóng tối, anh hôn nàng lần đầu, nụ hôn có một chút lửa tình dục trong bàn tay sờ soạn của một kẻ phàm phu, đôi vú nhỏ, thon, tròn, vừa tay, cặp đùi lẵng, dài, Hậu nói, ‘’đừng anh’’ nhưng đôi mắt đã nhắm nghiền lại, anh biết đã được và lần sau hai người dẫn nhau vào phòng trọ.
Chuyện bình thường như nhiều lần anh đã có với những người đàn bà khác, nhưng với Hậu, anh thấy có một điều lạ, là yêu đương cuồng nhiệt, nhưng khi ra khỏi cuộc mây mưa, nàng hiền như đức Phật bà. Khuôn mặt phúc hậu và âm thanh, giọng nói hiền đến nổi anh có cảm tưởng như Hậu chưa giận ai bao giờ, sự khác biệt giữa trước và sau, giữa cái thanh và tục, giữa lằn ranh của tình dục và đời thường, nó như một níu kéo anh dừng lại và anh dừng lại thật, không lang bang, không yêu ai nữa.
‘’Không yêu ai nữa mà chỉ yêu mình em thôi‘’, đó có phải là sự dứt bỏ một quá khứ, quên lãng sự cô đơn, bỏ đi những ba hoa, những đam mê, những kiếm tìm bóng sắc, ‘’không yêu ai nữa mà chỉ yêu em thôi’’, câu nói anh thường nói với Hậu, một nửa thật, một nửa ởm ờ che lấp, hình như qua cái tuổi trên bốn mươi, những ham muốn của người đàn ông chựng lại, có thể nói đến cái già, cái cằn cổi đã tới, sự tiếp nối giữa thanh niên và trung niên, những người đàn bà ngày trước với Nhự là một sự chinh phục cái thế giới lạ, hơi hám lạ, con người lạ, cử chỉ lạ, da thịt lạ, làm anh bùng cháy những những cơn mê điên loạn, những háo hức rực tình, còn bây giờ anh chỉ muốn tìm một chỗ bình yên, một bóng mát để yên thân một đời.
*
Đường phố Sài gòn đầy đặc người và đầy đặc xe, xe cộ chạy bất cần luật lệ hay luật lệ quá lỏng lẻo, mạnh ai nấy chạy, mạnh ai nấy đi. Xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gát, xe hơi, xe vận tải, hình như có một quy luật chung là cứ chạy rồi ‘’signal‘’ tay, rồi đạp thắng cho xe chậm lại rồi chạy tiếp. Lúc mới lên xe từ phi trường về nhà, ngồi trên chiếc xe hơi 8 chỗ ngồi của Đông Ngạn nhờ người bạn chở hộ, Nhự từ bên trong nhìn ra dòng người xe bất tận đi bên ngoài thật vô trật tự. Thắng xe làm việc liên miên, người xe qua lại bên ngoài nhiều lúc sát sạt bên hông xe, chiếc xe Van luồn lách giữa đám đông ken đặc như nêm, anh chợt nghĩ đến môt trật tự lưu thông ở Mỹ, những đường phố láng bong, những xa lộ ngút mắt và một quy luật lưu thông rõ ràng, bây giờ ngồi nhìn đám đông người xe chạy bên ngoài anh chợt nghĩ đến một nơi không thể sống được.
Một nơi có thể sống được và một nơi không thể sống được, đó là một tâm trạng hoang mang đau buồn bất tận. Khi qua tiểu bang lạnh làm việc kiếm tiền, Nhự cũng cắn răng sống và nghĩ, nơi nầy không thể sống được, “sống” đồng nghĩa với niềm vui, mà nơi nầy toàn rét cóng, hoang vu và cô tịch quá, một nơi không có người nào tri kỷ, nói một câu, một ý nghĩa không ai hiểu. Cái tuổi của anh là muốn tìm về dĩ vãng, đó như là một nhu cầu tâm lý để làm nguôi ngoai nỗi đau thân phận ở xứ sở nầy. Nhớ ngày xưa khi ở trại cải tạo ra, đi chẻ củi thuê, đi vá xe đạp lề đường, sống qua ngày, sống không nổi, anh bỏ lên Tây Ninh với anh Giảng, một vùng kinh tế mới, suốt ngày chun vào rẫy cày cuốc, phát cỏ, nghe sao buồn tẻ quá, thì đâu là đất lành cho chim đậu đây.
Buổi đầu tiên của ngày trở về, trên căn gát chỉ có một mình anh với Hậu, anh ‘’yêu‘’ nàng. Những đam mê dồn nén dâng lên như nước thuỷ triều, cuốn trôi, thiêu đốt, tàn phá hung bạo, mê đắm. Rót cuộc thì chuyện mong chờ trong ba năm cũng rã rời, như sự ham muốn tắt ngấm lặng chìm sau đó, nó như trả lời anh về sự trở về, niềm hân hoan hay buồn thảm? Sự gặp lại con và người tình, nó đan bện trong anh một nửa sự bất an, một nửa sự quạnh quẽ và tự nhiên anh thấy mìnhcô đơn quá đổi.
Sự thật thì sự trở về sau ba năm là gần, là rất gần, nó như một sự tạm xa thành phố rồi trở lại, nhưng trong anh đã có cái nhìn khác. Hình như sự bận rộn bên nước Mỹ đã tiêm nhiểm anh nhiều trong đời sống thường nhật. Buổi sáng thức dậy ra xe đi làm, đâu đó có một trật tự rõ ràng, không vọng động. Hết giờ trở về với sự êm ả, sẽ bật tivi, sẽ bật nhạc, những CD với giọng hát êm nhẹ của một ca sĩ quen thuộc nào đó dội vào lòng anh sự thanh thản thoải mái, anh sẽ ngồi vào bàn viết một cái gì đó, đọc một vài tờ báo rồi đi ngủ. Bây giờ thì anh đang ở thành phố quê nhà, thành phố mà anh nhớ nhung quay quắt, bây giờ thành phố toàn người là người, sự đông đảo như một đàn kiến chuyển động trên mọi ngã đường khiến anh ngộp thở. Hình như ai cũng có một công việc gì đó để đi, để chen lấn, để ra đường. Ngày đầu tiên cầm tay lái chiếc xe gắn máy honda, anh nghe thật lạng quạng. Đông Ngạn nói, ‘’Ba để con lái cho, ba lái không quen đâu dễ đụng lắm’’. Anh vội nhường tay lái cho con. Ngồi phía sau và cùng hòa mình vào đàn kiến luân lưu trên đường phố, nhiều lúc anh thấy mình như bị cuốn trôi giữa dòng người bất tận và điều anh lo âu của anh là sợ sự va quệt. Anh bấu sát vào thân chiếc xe gắn máy, mới ba năm trước, anh đã từng đi hết các con đường, từ Chợ Lớn qua Vĩnh Hội, Khánh Hội rồi vòng lên Gò Vấp, Tân Bình, một ngày chạy không biết bao nhiêu cây số đường với chiếc mobylette cà tàng, thế mà anh đã sống, đã làm việc miệt mài, mới đó chứ có đâu xa.
Nhưng bây giờ thì anh đầu hàng, thành phố quá đông người và xe chạy lọan xạ, có thể anh sẽ quen, sẽ chạy xe nhanh bạt mạng, sẽ chen lấn dành giựt từng đoạn đường, sẽ len lỏi lên trên, lạng qua lạng lại để được đi trước, đi sớm hơn. Và điều mà anh sợ nhất là cái nóng, cái nóng hừng hực của mặt trời, cái nóng khét lẹt của hơi người, nhiều lúc đang đi giữa đường với Hậu, anh đã nói to ‘’về nhà đi em, về ngay, nóng quá không chịu nổi’’.
Thành phố ngày anh trở lại còn gì, hơn gì ngày trước, có chăng là những khách sạn được xây thêm, nhà hàng được mở ra nhiều để hốt bạc du khách, những quán cà phê đèn mờ luôn luôn mời gọi tuổi trẻ nhào vô hưởng thụ, hũy hoại niềm tin về một ngày mới.
*
Hôm nay, anh muốn kéo cả nhà đi ăn một bữa thật ngon ở quán bánh xèo đường Đinh Công Tráng, quán bánh xèo nổi tiếng Saì gòn từ trước đến nay. Đông Ngạn cùng chồng, anh và Hậu, đi trên đường phố lâu dần rồi cũng quen, nước da anh đã sạm đen, áo quần đi ngoài về luôn luôn bám đầy bụi và mồ hôi. Những ngày anh mới về, Hậu ngồi sau xe, thường ôm sít người anh, lấy mũi hít hít vào chiếc áo anh đang mặc, Hậu nói, ‘’Thơm quá, thơm mùi Mỹ quá, cái gì của anh cũng thơm’’. Bây giờ thì nàng không hít nữa mà chỉ lặng lẽ tuyên bố, ‘’Hết thơm rồi, hết mùi Mỹ rồi’’ tự nhiên anh bật cười vô nghĩa.
Anh nghĩ ngày mai sẽ ra phi trường, sẽ trở lại thế giới đó, anh một nửa buồn một nửa vui, nhưng một điều chắc chắn là anh không hề có ý định ở lại.
Quán bánh xèo nằm trong con đường nhỏ, khi Nhự đến, quán đã đông khách, những tay ‘’cò ‘’ ra tận ngoài đường mời chào đon đả, anh cho gởi xe vào một căn nhà khác rồi cùng Hậu đi vào quán. Đông Ngạn hôm nay vui và mập lên vì thời gian qua anh đã lo cho chuyện ăn uống đầy đủ, anh nghĩ cái vật chất cũng là một điều quan trọng vô cùng khiến con người có thể thành sang hèn, xấu đẹp rất mau.
Người tiếp viên đến tận bàn đưa anh một tấm thực đơn, anh cầm đọc và nói luôn.
- Cho bốn bánh xèo đặc biệt và bốn lon Tiger.
Người tiếp viên ghi vào trong sổ rồi đi vào trong quày nói lớn:
- Bốn bánh xèo và bốn Tiger cho bàn số 5.
Anh nhìn quanh quất quán ăn trong sự xô bồ hỗn độn, chung quanh người ta vẫn ăn nhậu ngon lành. Ở đây được một cái tự do là nhậu thả ga và chạy xe bạt mạng mà không sợ cảnh sát, quán xá mọc lên như nấm từ quán nhậu bình dân đến nhà hàng năm sao, đâu đâu cũng biến thành chỗ ăn uống nhậu nhẹt được.
Đông Ngạn hỏi.
- Ba thấy Sài gòn có vui không?
Anh trả lời hàng hai.
- Cũng vui mà cũng không vui, được cái nầy mất cái kia.
Đông Ngạn nói:
- Vậy thì ba qua lo bảo lãnh cho gia đình con nghe.
Nhự ậm ừ.
- Bảo lãnh chứ, nhưng từ từ, đợi ba vô quốc tịch đã.
Một chiếc xe hơi đời mới chạy chậm chậm trên đường vào quán, các hành khách đi xe gắn máy phải dạt sang một bên, những người giữ xe trong nhà chạy ùa ra mời khách, ‘’cho xe vào đây anh, ở đây giữ xe trong vườn bảo đảm lắm, bảo đảm thật mà‘’. Họ la hét dành nhau chí chóe. Cuối cùng thì chiếc xe cũng được lái vào một căn nhà có khu vườn rộng dành cho xe hơi. Trong quầng sáng chói của ánh đèn néon, anh thấy một người đàn ông người Mỹ bước xuống xe và đi qua phía bên kia mở cửa trước, một người đàn bà bước xuống xe, anh nhìn kỹ và sững sờ, Ngọc, người vợ cũ của anh, là mẹ Đông Ngạn. Hai người đã li dị nhau từ ngày anh ở trại tập trung về khoảng hai năm, từ đó đến nay anh không có tin tức gì của Ngọc nữa.
Ngọc và người đàn ông Mỹ đi qua phía bên kia của quán thì Đông Ngạn cũng thấy Ngọc và kêu lên, ‘’Ô, Me kìa ba.’’ Nhự thấy mất bình tỉnh và hồi hộp, nói nhỏ với con, ‘’Ừ me, me về không báo tin cho con sao?’’ Đông Ngạn nói, ‘’ Dạ không.’’
Nhự quay lại nói với cả bàn một cách buồn bã:
- Ăn lẹ đi rồi ba phải về, mai còn đi sớm.
Đông Ngạn nói:
- Ăn xong ba và cô về trước nghe, con phải đi vào tìm me chút đã.
Anh đáp:
- Tuỳ con, ba phải về trước.
Bữa ăn không ngon tí nào, anh ăn vội vã, xong anh đứng lên trả tiền và giục Hậu.
- Mình về em, hai con về sau nghe.
Anh vội vã ra xe và chợt nghe thấm buồn, nỗi buồn có thật .
Trần Yên Hòa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét