Con kinh thẳng tắp dài hun hút kéo từ
Gẫy Cờ Đen đến quận lỵ Mỹ An, nhìn trên bản đồ nó èo ọt như một chiếc
que đan. Hai bên bờ kinh cây cối um tùm, ngả nghiêng, che phủ gần kín
hết ánh sáng của mặt trời chiếu xuống mặt nước. Kinh rộng độ mười thước,
nước đục lờ đờ, vài cây bèo cam phận hẻo lánh. Nhà cửa rải rác ẩn hiện
dưới những tàng cây. Rất nhiều những con lạch nhỏ ăn thông từ cánh đồng
ra lòng kinh. Đường mòn đã chật chội lại khúc khuỷu bởi những cây cầu
khỉ bắc ngang những con lạch đó. Nhà chị Tư ở khoảng giữa con kinh, gần
bến đò, cuối đường đi vào Tháp. Chị Tư sống và lớn lên ở đây. Ngoài thời
gian mấy tháng phải về binh vận tại chợ quận, chị Tư không hề biết đến
đời sống rộng lớn của cái thế giới này. Con kinh đã cô lập chị trong
những kỷ niệm chật chội. Thật vậy, chị Tư chưa đi xa hơn đầu con kinh,
chị Tư chưa đi quá chợ quận. Chồng chị tập kết từ mười năm nay không về.
Thỉnh thoảng chị cũng nhận được thư của anh do những người cán bộ
chuyển từ ngoài Bắc vào. Thư nào chồng chị cũng nói là khoẻ mạnh, vì bận
công tác nên chưa về được. Vợ chồng chị lấy nhau được chừng nửa năm thì
anh Tư đi theo bộ đội tập kết.
Chị Tư ở lại với bà mẹ chồng quanh quẩn,
mòn mỏi. Bà mẹ anh Tư đã chết cách đây hai năm với một niềm ân hận là
không được gặp mặt lại đứa con trai duy nhất của bà. Chị Tư từ đó chỉ
còn một mình trong căn nhà vắng vẻ. Vào những buổi chiều chị ra ngồi ở
bờ tre sau nhà, nhìn ra cánh đồng trống mênh mông, nghĩ tới anh Tư.
Những lúc đó niềm cô đơn trong lòng chị nhức nhối rát ruột rát gan và
chị ứa nước mắt cho số phận. Hồi anh Tư mới đi tập kết, mẹ con chị sống
côi cút với những hy vọng từng năm, từng năm, đợi ngày anh Tư trở lại.
Anh Tư chưa bao giờ trở lại nhưng có những đồng chí của anh trở lại. Lúc
đầu họ còn ẩn hiện trong xóm, dần dần họ đi lại công khai, và tầm hoạt
động của những người dân vệ trong đồn bến đò càng ngày càng thu hẹp lại.
Đến một đêm súng nổ ran và lửa cháy thiêu trụi tất cả đồn đó. Ngày hôm
sau máy bay đến oanh tạc dọc theo bờ kinh làm cho những cây cối vốn đã
khẳng khiu lại càng khẳng khiu vì bị những lằn đạn làm ngã gục. Rồi
thôi... Những anh cán bộ vẫn tiếp tục chuyền từ nhà nọ sang nhà kia, hết
rỉ tai từng người lại tập trung cả xóm học tập. Chị Tư biết đến những
tiếng: Tự Do, Dân Chủ, Độc Lập, Hạnh Phúc, Căm Thù, Đả Đảo... và nhiều
tiếng nữa từ đó.
Nhưng rồi chừng hơn một năm sau quân đội đến. Những anh
cán bộ liền vắng mặt. Mẹ con chị Tư lại được biết thêm một số tiếng lạ
nữa. Chị đi làm ấp chiến lược, chị học tập chính trị “tam túc”, “tam
giác” trong vòng đai kẽm gai và bờ đất. Đồn dân vệ được xây cất lại
với bộ mặt mới. Yên được một dạo. Nhưng rồi những anh cán bộ lại ẩn
hiện, lại mò mẫm rỉ tai trong đêm tối. Rồi đồn dân vệ lại nổ súng và
cháy rụi. Ấp chiến lược thành ấp chiến đấu. Mấy anh cán bộ lại học tập.
Mẹ anh Tư chết vào thời kỳ này và không biết bà chết vì bệnh gì. Chị Tư
lúc này đã trở nên một người biết tới hai chủ nghĩa: cộng-sản và nhân
vị. Chị có thể nói rất trôi chảy về những chủ nghĩa đó vì chị đã được
nghe quá nhiều lần. Rồi một hôm chị được đề cử đi binh vận tại chợ quận.
Lúc đầu chị nhất định không chịu đi làm công tác đó, nhưng sau chị nhận
được một lá thư do một anh cán bộ chuyển tới nói là của anh Tư ở ngoài
kia gửi vào. Thư anh Tư khuyên chị nên hăng hái đi công tác binh vận
theo chỉ dẫn của các đồng chí cán bộ. Chị Tư khăn gói lên chợ quận ở
cùng với một cán bộ giả dạng làm em trai.
Chị mở một quán cháo và từ cái
quán cháo đó chị quen với một anh binh sĩ truyền tin trong quận. Chú em
trai của chị cũng trở thành một anh dân vệ trong quận. Thời gian này
chị Tư quên đi mất hình ảnh anh Tư, vì chị Tư đã được sống lại những cảm
giác khoái lạc đến hỗn độn với anh binh sĩ truyền tin và “chú” em trai
cán bộ. Chị dãy dụa trong những niềm hoan lạc tràn ngập đó. Cuối cùng,
đến một hôm, cái thai trong bụng chị máy động. Cái máy động thứ nhất làm
chị bàng hoàng. Chị tự hỏi “nó”là của ai? Của anh cán bộ hay anh binh
sĩ truyền tin? Chị thẫn thờ cả người và chị muốn rời ngay cái chốn đó.
Chị tự hỏi của ai? Chị muốn biết của ai? Cái thai của ai cũng được nhưng
chị phải biết chắc là của người nào. Lúc này chị lại nghĩ tới anh Tư dữ
dội. Và chị Tư bỏ dở công tác binh vận. Chị trở về căn nhà xiêu vẹo ở
ven bờ kinh. Chị khóc ròng vì không biết cái thai của ai. Chị khóc ròng
vì anh Tư đi mãi không về. Lúc đó chị mới nghiệm ra rằng trong những lúc
chị quằn quại khoái lạc với anh cán bộ hay với anh binh sĩ truyền tin,
chị không nghĩ tới anh Tư nhưng là những lúc chị sống lại, tìm thấy cái
cảm giác mười năm về trước. Chị tìm thấy mà chị không biết là thấy. Anh
cán bộ cũng đào ngũ dân vệ, trở về xóm với chị. Anh hằn học với chị, anh
mắng nhiếc chị đã làm hỏng kế hoạch của anh. Anh hành hạ chị ngay cả
những lúc anh ngủ với chị. Cái thai mỗi ngày một đập mạnh và bụng chị Tư
lớn dần lên. Một hôm chị hỏi anh cán bộ cái thai trong bụng chị là con
của ai, anh ta bảo là con của Đảng.
Trong
phong trào thi đua đặt chông bẫy diệt Mỹ phòng thủ xóm, anh cán bộ giao
cho chị Tư một quả lựu đạn, bảo chị phải kẻ một khẩu hiệu “Đả Đảo Đế
Quốc Mỹ” mắc lên một thân cây và gài trái lựu đạn vào sau tấm biểu ngữ
làm bẫy. Anh còn làm cho chị xem rồi tháo ra để chị làm lấy. Anh lý luận
rằng phải chính chị tự tay làm lấy để cho hành động thấm nhuần tư
tưởng! Chị Tư ì ạch kẻ khẩu hiệu “Đả Đảo Đế Quốc Mỹ” trên một tấm ván
gỗ. Chị Tư ì ạch vác thang ra gốc cây trước cửa nhà. Chị Tư ì ạch mang
cái bụng chửa lên thang. Chị Tư ì ạch đóng đinh tấm bảng vào thân cây và
buộc quả lựu đạn nơi phía sau tấm bảng. Chị Tư ì ạch cột sợi dây oan
nghiệt từ chốt lựu đạn sang một cành cây, trước cặp mắt khuyến khích của
anh cán bộ đứng dưới. Mồ hôi chị Tư vã ra ướt đẫm cả quần áo. Chị tuột
xuống thang trở vào nhà thay quần áo khác rồi trở ra ngồi ở bậc cửa nhìn
lên tấm bảng khẩu hiệu “Đả Đảo Đế Quốc Mỹ”. Anh cán bộ mang hộ chị
chiếc thang vào sau nhà, xong cũng ra ngồi kề bên chị. Chị Tư ứa nước
mắt nhìn tấm bảng, nhìn anh ta, rồi chị dắt anh ta vào giường. Chị Tư đè
ngửa anh cán bộ xuống rồi chị khóc nấc lên thành tiếng: “Tôi đây, tôi
là của anh, nhà của tôi là của anh, cái bào thai này cũng là của anh. Nó
phải là của anh!” Anh cán bộ ú ớ dưới ngực chị: “Nó là của Đảng! Tất cả
là của Đảng!”
Cuộc
hành quân đến xóm đó thì dừng lại. Người sĩ quan chỉ huy bước vào nhà
chị Tư. Anh cán bộ không còn ở đó. Chị Tư ngồi ôm bụng trên chiếc chõng
tre nhìn người sĩ quan. Người sĩ quan quan sát khắp gian nhà. Bên ngoài
toán lính đang xục xạo tìm kiếm. Một anh vào báo cáo với người sĩ quan,
cuộc tìm kiếm không có gì khả nghi ngoại trừ cái khẩu hiệu “Đả Đảo Đế
Quốc Mỹ”. Người sĩ quan ra lệnh không ai được đụng tới tấm bảng. Mới lúc
nãy đây đã mất hai người đồng đội của họ chết vì vô ý giật một tấm khẩu
hiệu trên cây xuống và đã bị lựu đạn nổ tan xác.
Người
sĩ quan bước ra dưới gốc cây ngước lên quan sát rồi trở vào hỏi chị Tư
“Ai gài tấm biểu ngữ Đả Đảo Đế Quốc Mỹ ngoài kia?” Chị Tư nói “Tôi gài”.
Người sĩ quan nói “Ra gỡ xuống”. Chị Tư nói “Lạy cậu, nổ chết tôi”.
Người sĩ quan lại hỏi “Chồng chị đâu?” Chị Tư trả lời “Mất tích mười năm
nay rồi”. Sĩ quan nói “Tập kết hả?” Chị Tư gật đầu và y quát chị ra
gỡ tấm khẩu hiệu xuống. “Chị làm chị chịu, ai bảo cài lên”. Chị Tư vẫn
ngồi ì ra. Người sĩ quan rút súng lên đạn. Chị Tư hoảng sợ ôm bụng ì ạch
đứng dậy. Chị Tư ì ạch với cây gậy dựa nơi góc nhà. Chị Tư ì ạch bước
ra gốc cây. Chị Tư ì ạch dơ gậy lên giáng thật mạnh vào tấm bảng khẩu
hiệu “Đả Đảo Đế Quốc Mỹ”. Và trái lựu đạn văng xuống. Chị Tư hốt hoảng
vứt gậy bỏ chạy. Toán lính nằm rạp cả xuống. Nhưng trái lựu đạn không
nổ. Chị Tư ngã sấp mặt xuống trưóc cửa nhà. Nước mắt chị trào ra. Ngất
đi...
Chị Tư bị động thai. Người sĩ
quan bế chị vào nhà đặt nằm trên giường săn sóc cho chị. Suốt đêm đó chị
Tư bị hâm hấp sốt, thỉnh thoảng bị chuyển bụng. Người sĩ quan đứng cúi
đầu bên giường chị. Chiếc đèn dầu lập loè chiếu bóng anh ta hắt lên vách
méo mó. Gần sáng chị Tư sinh một đứa con trai thiếu tháng. Người sĩ
quan đỡ đẻ cho chị, anh ta làm công việc đó rất chăm chỉ. Đứa bé khỏe
mạnh khóc lên những tiếng làm cho anh ta vui ra mặt. Hắn luôn luôn sờ
trán chị Tư. Chị đã tỉnh và mỉm cười với hắn. Hắn cười lại... Sáng hôm
sau y sĩ đơn vị đóng cách đấy hơn cây số được mời tới săn sóc cho mẹ con
chị Tư. Mấy hôm sau, người sĩ quan đến hội đồng xã, mới đưọc thành lập
lại một lần nữa tại đồn dân vệ bến đò, làm khai sinh cho đứa bé. Hỏi cha
nó đâu chị Tư lắc đầu trả lời không có, nên người sĩ quan bèn khai cho
nó mang họ của ông ta. Lúc trở về căn nhà chị Tư, người sĩ quan lại sờ
trán chị Tư, sờ trán đứa nhỏ và nói với mẹ con chị rằng có lẽ anh ta
cũng đã có nhiều con nhưng không biết chúng ở đâu và chưa hề khai sinh
cho đứa nào. Bèn khai sinh cho đứa nhỏ này mang dòng họ của mình.
*
NHẮN
TIN: Nhắn cậu nhỏ mang dòng họ cùng với tôi, hai mươi năm nữa, cậu khôn
lớn (lời Nhắn Tin này chỉ gửi đến cậu khi cậu đã trên hai mươi tuổi),
lúc đó tôi không biết cậu sống trong hoàn cảnh nào, trong một xã hội
nào. Cậu cho tôi xin cậu một điều là, trước khi cậu hành động, trước khi
tranh đấu, trước khi cách mạng, trước khi biểu tình, trước khi đảo
chánh, trước khi lật đổ, trước khi hành quân, trước khi thuyết pháp,
trước khi cầu nguyện, trước khi hội thảo, trước khi thụt két, trước khi
hành lạc, trước khi đập phá, trước khi hy sinh... nghĩa là trước khi
quyết định làm một việc gì, xin cậu... chỉ xin cậu hãy nghĩ đến người
đàn bà mang thai khốn khổ, hãy nghĩ tới những người mẹ bị rất nhiều chủ
nghĩa với những danh từ hoa mỹ hành hạ. Xin cậu hãy nghĩ tới cái hình
ảnh đó, tôi cầu xin cậu như thế, vì tôi chính là tên sĩ quan đã hành hạ
mẹ cậu, đã đỡ đẻ cho mẹ cậu sau khi các đồng đội của tôi chết vì những
thứ khẩu hiệu như cái khẩu hiệu “Đả Đảo Đế Quốc Mỹ” ấy.
Thảo Trường
(Sài Gòn, VN / 27.11.1964)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét