trịnh y thư
4.
Cuộc sống tôi bước vào khúc quành khác
bắt đầu với câu nói của bố tôi lúc ông từ sở làm về. Bố tôi lúc đó làm
công chức Sở Đoan. Ông ném chiếc cặp da lên bàn, tay nhận cốc nước mẹ
tôi đem lên, nói với mọi người trong nhà mà như nói với chính mình:
“Thằng Bôi hôm nay họp toàn thể
công chức, ra lệnh cho mọi người phải tản cư khỏi thủ đô. Dân chúng cũng
phải tản cư. Toàn quốc kháng chiến.”
Tuy mới mười sáu nhưng tôi biết
“thằng Bôi” bố tôi đang nói đến là ai. Tên ông ta là Phan Bôi, hình như
là em chú bác với ông Phan Khôi, và đang giữ chức Bộ trưởng Nội vụ trong
chính phủ cụ Hồ. Tôi nghe các anh lớn trong Tự vệ thành kháo nhau như
thế.
<!>
Không khí chiến tranh nặng nề phủ
trùm thủ đô, nhất là từ hôm có trận đụng độ giữa Tự vệ khu Hàng Bún và
quân nhảy dù Pháp. Mọi sinh hoạt nhộn nhịp thường ngày gần như ngưng
đọng. Những cơn mưa phùn, gió bấc vần vũ trời đông rét mướt lúc nào cũng
xám xịt khiến ai nấy chỉ biết chui rúc trong nhà đóng chặt cửa. Chờ
đợi. Thấp thỏm lo âu. Hà Nội đã nếm mùi chiến tranh. Những trận mưa bom
của quân đồng minh giội xuống cách nay không lâu làm tan hoang ga Gia
Lâm, chợ Hàng Da, bảo tàng Maurice Long. Hình ảnh những người chết cháy
thành than còn rất mới, ghi hằn trong tâm trí người Hà Nội. Người ta
đang chờ đợi một biến cố khốc liệt sắp xảy ra, và chẳng có gì khổ sở hơn
một tâm trạng chờ đợi như thế.
Ngoài đường sá, tôi thấy các cây
to được đốn ngã dùng làm chướng ngại vật cản đường xe bọc sắt của Pháp.
Các nhà đều bị đục tường thông nhau để chuẩn bị cho việc chiến đấu giành
giật từng căn nhà một. Hai bên vách tường nhà tôi đều bị đục. Trong nhà
đồ đạc ngổn ngang, mẹ và chị tôi suốt ngày thu dọn quần áo, tư trang,
ít đồ dùng cần thiết cho vào hành lý xếp gọn, chỉ chờ có lệnh là tản cư.
Nhưng tôi ít có mặt ở nhà bởi hằng
đêm tôi trốn nhà đi họp hành lén lút với các anh lớn. Tại những căn gác
chật hẹp mịt mù khói thuốc lá, lần đầu tiên trong đời tôi được nghe
những lời nói đanh thép, hùng hồn về sứ mệnh người thanh niên trước hiện
tình đất nước, nào là quyết tiêu diệt quân thù, quyết đánh tan bè lũ
thực dân và phản động, nào là độc lập, ấm no, hạnh phúc. Ai cũng phải
học tập chính trị. Tôi chẳng hiểu gì lắm nhưng máu trong người chảy
mạnh, tim đập thình thịch khi nghe những lời nói đó thốt ra từ miệng các
anh. Họ chỉ hơn tôi vài tuổi nhưng sao tôi thấy họ tài giỏi vĩ đại quá.
Trong mắt tôi lúc đó, họ là những anh hùng cứu dân cứu nước.
Sau đó tôi được chỉ định đi theo
một anh sinh viên trường Luật để phụ giúp anh làm việc vặt. Suốt thời
gian đó tôi như lên cơn sốt, chờ đợi một biến cố gì trọng đại ghê gớm
lắm sắp sửa xảy ra, và khi nó xảy ra thì cả nước phải bùng nổ như ngày
tận thế. Nhưng chờ mãi tôi vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, chỉ thấy dân tản
cư từ Cầu Đơ, Cự Đà, Khúc Thủy về tạm trú giăng bạt làm lều dọc bên bờ
sông Nhuệ. Hằng ngày họ ngồi la liệt bên bờ sông, chờ có ai đạp xe có vẻ
như ở xa đến là xúm lại hỏi han tin tức. Có được tờ báo Cứu Quốc thì
tranh nhau đọc, đọc xong lại ngồi thừ người ra than vắn thở dài.
Rồi cái đêm cuối năm đó, khoảng 10
giờ đêm thì tiếng súng đầu tiên nổ, thoạt đầu nghe xa xa nhưng càng lúc
càng tiến gần căn nhà nơi tôi và anh sinh viên Luật nằm ẩn nấp. Chúng
tôi có lệnh đóng chốt ở đây để cản bước tiến của quân Pháp. Tôi tự hỏi
chỉ hai anh em chúng tôi, với hai thanh bộc phá nội hóa, không súng ống,
đạn dược thì làm sao cản bước tiến của một đội quân hùng mạnh với đại
liên và xe bọc sắt? Quãng nửa đêm thì tiếng súng ngưng bặt. Nằm úp mặt
xuống nền nhà đằng sau một đống lỏng chỏng bàn ghế, vật dụng trong nhà
làm chướng ngại vật, tôi và anh sinh viên bỗng thiếp đi. Tôi ngủ không
biết bao lâu cho đến lúc nghe tiếng chân người chạy sầm sập trước nhà
như muốn phá vỡ khu phố, lẫn tiếng la hét om sòm, tiếng Việt và tiếng
Pháp, thì tôi mở choàng mắt tỉnh dậy. Anh sinh viên cũng đã tỉnh ngủ,
anh thò tay ra nắm tay tôi, mồ hôi tay anh tươm ra ướt tay tôi. Tôi chưa
kịp định thần xem chuyện gì đang xảy ra thì cánh cửa ra vào trước mặt
bị kẻ nào dùng giày đinh đạp mạnh mở toang. Trong bóng tối nhờ nhờ tôi
chỉ kịp nhận ra hai tên lính Lê dương Pháp, một đen một trắng, tay cầm
súng trường lăm lăm chĩa vào trong nhà, miệng quát tháo ầm ỹ liên hồi.
Anh sinh viên cũng ngơ ngác như tôi, anh bỗng nhổm người dậy, một tay
giơ lên như xin đầu hàng. Đầu anh vừa nhô lên khỏi đống bàn ghế, cánh
tay giơ lên chưa quá đầu đã có tiếng súng nổ đoành. Một viên đạn ghim
ngay giữa trán anh, và anh ngã vật ra đằng sau, chết ngay. Tôi chết lặng
người quay sang nhìn xác anh sinh viên. Cơn sợ hãi khiến tôi há hốc
miệng, không một tiếng kêu. Hai tên Lê dương chờ một lát không thấy bóng
ai trong nhà nữa mới tiếp tục tiến vào lục soát. Lúc đi ngang xác anh
sinh viên, thấy tôi nằm run như cầy sấy bên cạnh, mặt vẫn úp xuống sàn
nhà, hai tên dừng lại. Tôi có cảm giác tên da đen dí mũi súng vào gáy
tôi nhìn sang tên da trắng nói cái gì đó như có ý chờ lệnh bắn. Không
biết tên da trắng ngẫm nghĩ gì, có lẽ thấy tôi chỉ là một cậu trai mười
lăm mười sáu tuổi, trên tay không một tấc sắt, có vẻ như vô hại, hắn lắc
đầu.
Thế là tôi thoát chết.
5.
Tôi vẫn nằm úp mặt xuống sàn nhà. Cái
sợ bây giờ thấm vào từng tế bào trong cơ thể tôi. Càng nghĩ tôi càng sợ.
Tôi nằm nguyên một chỗ từ đêm qua, lâu lắm. Trời đã sáng. Ngoài kia
tiếng súng vẫn nổ giòn khắp nơi, rồi tiếng chân người chạy, tiếng la
hét, tiếng gọi nhau, tiếng xích xe bọc sắt rào rạo nghiến mặt đường
nhựa. Hai ba tiếng đồng hồ nữa trôi qua, tôi vẫn nằm, cái lạnh thấm vào
xương tủy, và có lúc tôi thiếp đi. Khi tỉnh ngủ, tôi nhìn sang anh sinh
viên. Lúc bị bắn, anh đang trong tư thế nhổm người dậy, nên bây giờ xác
anh nằm vặn vẹo trên mặt đất, trông đến thảm thương tội nghiệp. Đầu anh
ngoẻo sang một bên, khuôn mặt đầm đìa máu vì từ vết thương trên trán máu
không ngừng rỉ ra. Hai mắt anh vẫn mở trừng trừng, đầy máu. Chân trái
anh bẻ quặt nằm dưới chân phải, hai tay dang ra như muốn ôm cả vũ trụ
vào lòng. Bây giờ anh chẳng ôm ai được nữa. Mặt anh đầy máu nhưng tôi
vẫn hình dung được khuôn mặt thông minh, thanh tú và hiền lành. Anh có
nụ cười nửa miệng, nụ cười làm xiêu lòng không ít các cô gái Hà thành
yểu điệu. Anh không phải dân Hà Nội. Anh bảo tôi quê anh ở Hà Đông, làng
Chúc Động. Dòng họ anh có truyền thống khoa bảng, và anh học giỏi lắm.
Anh cũng là dân trường Bưởi, đỗ Tú tài toàn phần hạng ưu và được nhận
vào trường Luật. Tương lai anh sáng rực. Nhưng chỉ một tích tắc lúc anh
bất giác nhổm người đứng dậy, giơ cánh tay như muốn đầu hàng, ngay tích
tắc ấy, dòng sống anh bị cắt ngang đột ngột như cuốn phim hay đang chiếu
ngon lành bỗng bị cúp điện, tắt phụp.
Xế chiều, khi tiếng súng chỉ còn
lắc cắc ở xa, đói và mệt, tôi nghĩ đến chuyện tìm đường về nhà. Trước
khi ra khỏi căn nhà, tôi định vuốt mắt anh sinh viên rồi mới đi. Tôi xếp
đầu anh cho ngay ngắn, kéo cái chân bị bẻ quặt cho thẳng thớm, hai tay
anh tôi xếp lên ngực. Xong xuôi tôi vuốt mắt anh, nhưng vuốt mấy lượt,
hai mắt anh vẫn cứ giương lên nhìn tôi như chờ đợi tôi nói điều gì. Tôi
đồ máu vào mắt nhiều quá khiến hai mí mắt anh không dính vào nhau được.
Tròng trắng, tròng đen trong mắt anh bây giờ là tròng đỏ. Tôi tìm được
quanh nhà một mụn giẻ đem đến chùi sạch máu trong mắt, trên mặt anh.
Nhưng sau khi chùi sạch, tôi vẫn không cách nào làm cho mí mắt anh khép.
Cuối cùng tôi xé mụn giẻ làm một giải ruy băng buộc mắt anh lại. Trông
anh bây giờ như kẻ tử tội bị bịt mắt trước giờ hành quyết. Chỉ khác là
anh bị hành quyết rồi mới được bịt mắt. Anh đã chết, hãy cho anh nhắm
mắt, đừng bắt anh mở mắt nhìn cái thế gian khốn khổ và khốn nạn này nữa.
Tôi nghĩ thế. Nhưng đó chẳng qua chỉ là cách tôi ngụy biện để chống chế
cho hành vi vừa buồn cười vừa ngu xuẩn, điên khùng của mình. Sự thật là
tôi sợ đôi mắt ấy nhìn theo tôi lúc tôi bước chân ra khỏi căn nhà. Tại
sao là anh, mà không phải tôi nằm đó? Tại sao anh chết, còn tôi sống?
Hai hốc mắt đầy máu ấy kinh khiếp quá. Nó có oán trách tôi không mà sao
vẫn hiện về trong những cơn ác mộng gần đây của tôi.
Ra khỏi cửa, tôi phóng chân chạy
thật nhanh, không phải bởi tôi sợ lính Pháp trông thấy, mà bởi tôi sợ
đằng sau lưng mình tiếng anh sinh viên vọng theo, “Minh ơi! Minh! Minh
đừng bỏ anh lại đây. Minh giúp đưa anh về nhà gặp bố mẹ và các em của
anh nhé. Bố mẹ anh chắc chờ anh đến mòn cả người rồi.”
Chạy một đoạn khá xa, tôi dừng lại
thở dốc. Cảnh bãi chiến trường sau một đêm giao tranh không giống như
tôi tưởng tượng. Sự đổ vỡ chẳng có là bao. Hà Nội chỉ là cô gái bị tí
bụi vương vào mắt. Thi thoảng một chiếc quân xa của quân đội Pháp gầm rú
chạy trên đường phố vắng. Một hai người gò lưng trên xe đạp chạy như bị
ma đuổi. Tôi về đến nhà thấy cửa khóa chặt, kín như bưng, đập cửa năm
bẩy lần, cất tiếng gọi bố mẹ và chị thật to vẫn không thấy ai ra mở cửa.
Tôi đoán bố mẹ và chị tôi đã tản cư. Mặt trước nhà không thấy một chút
hư hại nào, tôi tạm yên lòng, nhưng cảnh tượng im lìm của dãy phố khiến
tôi run sợ. Sự lặng thinh của cái chết bao giờ cũng ghê rợn. Nó là sự
yên tĩnh của bãi tha ma. Vì yên lặng nên tôi nghe rõ tiếng lá xào xạc
trên mặt đường. Ngày thường có bao giờ tôi nghe tiếng lá ấy đâu. Tiếng
lá làm dấy lên nỗi hoang vắng thê lương trong lòng tôi. Tôi đứng ngẩn
ngơ trước nhà mình mãi. Chiều đang héo úa trên những vòm cây dọc hai bên
đường. Tôi chẳng biết phải làm gì, đi đâu.
Bỗng có tiếng gọi nửa mừng rỡ nửa hốt hoảng sau lưng tôi:
“Minh! Minh! Mày đi đâu mấy ngày hôm nay để bố mẹ mày chết vì nóng ruột! Ông bà ấy với con Lan tản cư rồi!”
Tôi quay lại thấy bác Thục trong
bộ pyjama lụa màu mỡ gà từ bên kia đường đang đi nhanh về phía tôi. Bác
là người hàng xóm chơi thân với bố tôi, nhà ở xế nhà tôi bên kia dãy
phố. Tôi mừng quá quên cả chào bác:
“Gia đình bác không đi tản cư ư?”
“Đi cả rồi. Thằng Luân đưa mẹ nó
và ba đứa em xuống Liên khu Ba, tạm trú nhà người trong họ ở Vân Đình.
Mình bác ở lại với ông cụ vì ông cụ nhất định không chịu đi đâu. Thôi
thì sống chết đành ở lại.”
Đoạn bác bảo tôi vào nhà bác. Thấy tôi quần áo lem luốc bẩn thỉu lại có nhiều vệt máu, bác ái ngại hỏi:
“Cháu có sao không?”
“Cháu không sao… nhưng anh Kính đi với cháu thì bị đạn, chết.”
“Thế à? Tội nghiệp quá đi mất. Khu
phố nhà mình thì anh Thành nhà bác Ba Định cũng mất, năm sáu anh thanh
niên khác bị thương, chả hiểu có qua nổi không. Tự vệ vỡ cả rồi. Trung
đoàn thủ đô cũng đã rút. Mai kia không hiểu sẽ như thế nào.” Nói đến
đây, bác chép miệng. “Thôi, cháu đi tắm đi, rồi ra ngoài này ăn cơm với
bác. Nhà bây giờ chỉ còn mình bác với ông cụ, chả có cái gì ăn. À, cháu
lấy quần áo thằng Luân mà mặc, nó chỉ đem theo ba bộ thay đổi dọc đường.
Nó nói với bác nó muốn đi bộ đội cụ Hồ. Bác biết chí của nó nên không
cản.”
Tôi biết anh Luân vì là hàng xóm. Anh năm nay đã ngoài hai mươi, chưa có vợ, chí của anh là học Y trở thành bác sĩ.
Tắm xong, tôi thấy người khỏe
khoắn, ra ngồi ở phản ăn cơm với bác Thục. Chỉ có đĩa rau dền luộc chấm
nước mắm, nhưng tôi ăn ngon miệng. Trong lúc ngồi ăn, bác nói bố mẹ tôi
nhờ bác đưa lại cho tôi mười đồng, nếu tôi sống sót trở về, để làm lộ
phí tìm đường lên ấp nhà bác Đương trên Yên Báy. Gia đình tôi tản cư về
trên đấy. Bác Đương, chúng tôi hay gọi là bác Phán Đương vì trước đây
bác làm phán tại Tòa Sứ. Bác là anh cùng cha khác mẹ với mẹ tôi. Đang
làm phán, một hôm bác xin nghỉ việc, bán hết nhà cửa ở Hà Nội đem vợ con
lên Yên Báy mua một mảnh đất dựng cái ấp sinh sống. Tôi nhớ năm lên
mười, tôi có lần theo mẹ lên thăm ấp của bác. Giữa mùa thu, rừng lau
trắng xóa một vùng, tôi thích lắm, và nhớ mãi những buổi đi chơi với bác
giữa cảnh núi đồi trùng điệp.
Bác Thục nuôi tôi năm ngày thì tôi
xin phép bác đi. Chiếc xe đạp bố tôi để lại, bác cũng giao cho tôi. Bác
bịn rịn chia tay tôi, cứ dặn đi dặn lại, “Cháu phải hết sức cẩn thận,
thời buổi loạn lạc chẳng biết đâu mà lần. Cứ đề phòng là hơn.” Trước khi
đạp xe đi, bác còn giúi vào tay tôi ba đồng. Tôi từ chối vì nghĩ bác
cần tiền sống qua ngày trong lúc chờ tình hình yên ổn trở lại, nhưng bác
ép quá, tôi đành nhận tiền của bác. Tôi mặc chiếc áo dạ, vai đeo ba-lô
Hướng đạo, trong nhét ba bộ quần áo và ít đồ dùng, tất cả là của anh
Luân để lại, cùng giấy tờ cần thiết, đoạn cám ơn bác Thục thêm lần nữa
trước khi mím môi đạp mạnh bàn đạp chiếc xe. Bác tốt với tôi quá, xem
tôi như con cháu bác, dù chỉ là hàng xóm. Bây giờ những người như bác
không còn nữa.
Tôi đạp xe đến căn nhà nơi tôi họp hành mỗi đêm với các anh trong Tự vệ
thành. Chưa đến nơi tôi đã chứng kiến cảnh đổ nát của cả khu phố, mặt
tiền nhiều căn nhà bị phá toang, chỗ nào cũng có vết đạn lỗ chỗ, nhiều
căn bị cháy rụi kể cả căn dùng làm nơi hội họp. Chắc là có cuộc giao
tranh lớn xảy ra ở đây, và chẳng còn hy vọng tìm được ai để nhắn đi nhặt
xác anh sinh viên. Đã mấy hôm rồi, chắc họ đã ném xác anh xuống một hố
chôn tập thể nào đó hay thiêu thành tro. Không ai trong gia đình anh hay
biết nơi anh nằm chết để đem xác về quê chôn cất, anh sẽ làm con ma
không mồ từ bây giờ cho đến ngày quả đất này tan biến khỏi vũ trụ.
Tôi đạp xe luồn lách qua những con
đường chật hẹp vắng người nhắm hướng cầu Long Biên. Trên đường, nhà cửa
đóng im ỉm, người qua lại thưa thớt, có lẽ tình hình an ninh chưa yên
ổn hẳn, những người không tản cư chọn ở lại chưa cảm thấy vững tin để mò
ra ngoài. Tôi thấy những toán lính nhẩy dù Pháp đầu đội mũ bê-rê đỏ,
súng ống đầy người, đi nghênh ngang ngoài đường phố. Hai ba thầy Đội
người Việt, trong bộ đồng phục ka-ki vàng, quần soọc che vừa kín đầu
gối, mang vớ đen dài để lộ đôi chân khẳng khiu đen đúa, tay phải cầm gậy
ngắn, vừa đi vừa đập đập vào lòng bàn tay trái, mặt vênh lên trời, sánh
vai nhau đi tới đi lui trên vệ đường, giữ trật tự. Các thầy có mặt
ngoài đó chắc chỉ để làm oai chứ có ma nào dám chường mặt ra đường lúc
này đâu mà phải giữ trật tự? Ngoại trừ tôi.
Theo lời bác Thục thì trước tiên
tôi phải ra Vĩnh Yên, tìm đường lên Việt Trì, Phú Thọ, xong từ Phú Thọ
cứ thẳng hướng tây bắc theo sông Hồng đi ngược lên Yên Báy. Bác dự trù
quãng đường 160 cây số đó, tôi sẽ đi mất nhiều lắm là một tuần nếu mỗi
ngày trung bình tôi đạp xe được 30 cây. Hiển nhiên, bác Thục không phải
tướng chỉ huy ngoài trận mạc, bác chẳng hề dự trù cho bất kỳ bất trắc
nào xảy ra trên đoạn đường sinh tử ấy trong khi tiếng súng vẫn đì đùng
nổ khắp nơi.
Tôi bỏ Hà Nội lại sau lưng. Ôi,
biết bao kỷ niệm. Tôi vừa đạp xe vừa cố nhìn lần chót những hình ảnh của
Hà Nội mà chẳng biết bao giờ mới có dịp về nhìn lại. Hồ Hoàn Kiếm vẫn
xanh biếc với tháp Rùa, cầu Thê Húc, đình Trấn Ba. Đường Hoàng Gai, nơi
bán đèn Trung Thu mà hằng năm mẹ tôi dắt chị em tôi ra mua đèn về chơi.
Trường nữ học Đồng Khánh với những tà áo bay. Rồi vườn trại Ngọc Hà với
chợ hoa những ngày cận Tết. Nơi nào cũng để lại trong tâm tư tôi đầy ắp
kỷ niệm. Tôi còn nhớ cả tiếng chày chí chát của đám thợ đập vàng trên
phố Hàng Bông Đệm, hay tiếng chuông leng keng, tiếng bánh xe nghiến trên
đường sắt của chiếc tàu điện chật cứng người mỗi ngày tôi lấy đi học
hay đi chơi. Những bức tường rêu phong loang lổ, những vỉa hè, những con
ngõ nhỏ như ngõ Phất Lộc với những căn nhà bé xíu thụt ra thụt vô, dây
leo chằng chịt, trông rất ma quái. Ma quái không kém là ngõ Sầm Công,
nơi có cái miếu nhỏ thờ ông Sầm Nghi Đống, cái ông Thái thú người Tàu
phải thắt cổ tự tử khi bị vua Quang Trung đánh cho tan tành giáp trụ. Và
ngõ Cấm Chỉ phố Hàng Bông gần nhà, nơi tôi hay ngồi ăn quà buổi sáng.
Cũng không thể phai mờ trong tâm trí tôi là rặng bàng khô lá, lối đi
quen thuộc từ những ngày còn cắp sách đánh vần với những kỷ niệm tuổi
học trò thơ dại. Rồi năm Cửa Ô, cửa nào cũng có vết chân tôi. Cửa Ô Quan
Chưởng với gạch ngói cổ xưa, loang lổ dấu vết thời gian. Cửa Ô Cầu Giấy
với hàng phượng vỹ mùa hè đỏ ối rợp bóng hai bên đường. Cửa Ô Cầu Dền
nơi thuở nhỏ tôi hay theo mẹ đi chợ Tết. Với Cửa Ô Đống Mác, đường đi
Bát Tràng, thì tôi không thể quên những quả ổi ương ương chấm muối ớt ăn
ngon nhớ đời. Và Cửa Ô Chợ Dừa, muốn ra đó phải đi ngang phường Dạ Lạc,
phố Khâm Thiên, có thằng con trai mới lớn đỏ mặt, trống ngực đánh thình
thịch mỗi lần thấy các cô gái má đỏ môi son đứng trong nhà nhìn ra cửa.
Tất cả quay về tuần tự như khúc phim dĩ vãng vàng ố chiếu giọi chờn vờn
trước mắt tôi.
Chưa bao giờ tôi thấy cô đơn và buồn bã như lúc này.
6.
Tôi chạy loanh quanh Hà Nội một lúc
khá lâu, vì cứ thấy bóng dáng quân nhảy dù Pháp hay thầy Đội là tôi lủi
sang hướng khác. Mãi bốn giờ chiều tôi mới đáp chuyến đò ngang qua sông
Đuống tới làng Đông Trù. Nhờ trước đây đi chơi nhiều, từng đạp xe đường
trường với các anh Trưởng Hướng đạo nên tôi thông thuộc đường sá, không
đến nỗi đi lạc.
Từ Đông Trù trở đi, tôi thấy phong
cảnh tiêu điều, hiu hắt làm sao. Sương chiều bắt đầu giăng phủ càng làm
cho cảnh vật thêm ảm đạm, thê lương. Hai bên đường nhiều ngôi nhà cháy
rụi, nhà ngói cũng như nhà tranh. Vài chiếc ô-tô cháy dở còn trơ cái
sườn xe lam nham lở nhở nằm choán cả nửa mặt đường. Đồng ruộng khô cháy.
Nắng xiên khoai lấp lóa trước mắt. Tôi cứ thế cắm đầu cắm cổ đạp, gió
thổi vù vù bên tai. Người đi đường không nhiều, có lẽ là những người tản
cư muộn như tôi, nhưng đi ngược chiều tôi về phía Hà Nội cũng có.
Đang chạy ngon trớn, tôi bỗng nghe
như có tiếng gọi tên tôi văng vẳng theo gió từ xa vọng lại. Tôi phanh
xe, ngoái nhìn về phía sau, thấy một người đang gò lưng phóng xe lại
phía tôi. Người đó vừa đạp vừa gọi tên tôi liên hồi. Khi đến gần, tôi
nhận ra anh Mẫn, cũng trong Tự vệ thành. Anh dừng xe, đứng thở hổn hển
một lúc mới nói được:
“Anh đang ngồi ăn bánh gai trong
quán nước thì thấy em chạy ngang. Em chạy nhanh quá, anh gọi mà em không
nghe. Em đi đâu đây?”
“Em lên Yên Báy, gia đình em tản cư về cả trên đấy.” Tôi mừng quá, không ngờ gặp anh ở đây. “Còn anh đi đâu?”
“Anh lên Phú Thọ. Một bộ phận
trường mình sơ tán về Đào Giã, em biết chưa? Thầy Trần Văn Khang bây giờ
làm hiệu trưởng. Anh lên học nốt năm Đệ Nhất để cuối năm thi Tú tài
toàn phần.”
Mới mấy tuần không gặp mà trông
anh già sọm đi. Anh học năm cuối ở Bưởi nhưng cũng vì chiến tranh mà
việc học bị gián đoạn. Chúng tôi vừa thong thả đạp xe vừa kể cho nhau
nghe về trận đánh trong thủ đô. Anh Mẫn cũng thoát chết trong đường tơ
kẽ tóc, gia đình anh tản cư về Liên khu Ba, vì có người trong dòng họ
bán quán cơm ở Chợ Đại. Anh chạy xuống đó lo cho gia đình nơi ăn chốn ở
yên ổn rồi mới chạy ngược lên đây đi Phú Thọ. Tôi kể anh nghe chuyện anh
sinh viên Luật chết như thế nào.
“Em thật đoảng. Ở Hà Nội mấy hôm mà không tìm cách báo tin cho nhà anh ấy biết để đi tìm xác.” Tôi bảo anh Mẫn.
“Có biết tin cũng chưa chắc tìm ra
xác, Minh ạ. Tây nó đào hố bên cạnh Tòa Án vùi cả trăm cái xác xuống
đó. Mình đành chịu, chỉ biết thắp nén hương rồi gọi tên các anh van vái
cho linh hồn các anh siêu thoát, chứ biết làm gì hơn bây giờ.” Giọng anh
đượm buồn.
Đoạn anh đổi giọng, nói sang chuyện khác:
“Em đi với anh đến Phú Thọ, ở với
anh vài hôm rồi hẵng lên Yên Báy. Đến Phú Thọ, anh sẽ nhờ người quen đưa
em ra hành kháng xin chứng minh thư cho em. Có anh và hai anh khác
chứng thực cho em là được. Ngoài này là đất của kháng chiến, đi đâu em
cũng phải có chứng minh thư.”
“Vâng, em cảm ơn anh…” Tôi cảm động đáp lời anh.
“Anh em mình đi tìm ngôi làng nào
vào ở tạm đêm nay. Trời sắp tối rồi.” Anh bảo tôi, đoạn tiếp lời, “Nhưng
mình phải cẩn thận vì quanh đây có nhiều làng Tề, gặp chúng là mình bỏ
mạng đấy.”
Chúng tôi đạp xe thêm chừng mười
lăm phút đồng hồ nữa thì trời bắt đầu chạng vạng tối. Nỗi lo ngại của
anh Mẫn khiến tôi chột dạ. Phần tôi thì chắc không sao, nhưng trên người
anh Mẫn là chiếc áo trấn thủ màu rêu cổ tròn, sát nách, mặc bên ngoài
chiếc sơ mi vải ka-ki đã cũ, có thể bị chúng nghi là bộ đội. Không biết
anh tìm đâu ra chiếc áo trấn thủ vì chỉ bộ đội mới mặc loại áo đó để
chống lạnh. Hay có người nào tặng anh chiếc áo?
Làng Tề không khó nhận ra, vì trời
sập tối là họ cho tráng đinh cầm gậy gộc ra cổng làng canh gác. Có
nhiều trường hợp các ông trong Hội Tề bị ám sát. Ban ngày là Tề nhưng
đêm tối là kháng chiến, nhiều ông Hội Tề phải ôm chăn chiếu vào đồn Tây
ngủ.
Lo ngại của tôi biến thành sự thật
khi tôi thấy bẩy tám người đàn ông lẫn trai tráng cầm gậy đứng nghênh
ngang giữa đường. Anh Mẫn thét to bên tai tôi:
“Minh! Làng Tề! Phóng hết tốc lực!”
Nhưng đã quá trễ. Đám người vây
chúng tôi vào giữa, chúng ghìm ghi-đông xe lại. Giữa những tiếng la hét
ầm ỹ đầy dọa nạt, tôi nghe tiếng hô to của người nào đó:
“Việt Minh! Việt Minh! Đánh bỏ mẹ hai thằng Việt Minh đi!”
Chúng lôi tôi và anh Mẫn xuống xe
đạp, vật anh em tôi xuống mặt đường. Tôi chỉ kịp lấy hai tay ôm đầu
trước khi trận mưa gậy tới tấp giáng xuống người tôi. Có lẽ nhận ra tôi
chỉ là anh chàng thiếu niên mặt còn búng ra sữa nên chúng nhẹ tay hơn
anh Mẫn. Đánh một chặp, xem chừng đã đủ, chúng lủi nhanh vào làng, hai
chiếc xe đạp và hai chiếc ba-lô cũng bị chúng cướp mất. Tôi vẫn tỉnh
táo, nhưng nằm yên trên mặt đường nhựa chờ cơn đau lắng dịu trong khi
anh Mẫn có lẽ đã ngất đi vì tôi gọi mấy lượt không nghe anh trả lời. Có
vài người đạp xe đi ngang, thậm chí một chiếc ô-tô chạy chậm lại nhưng
rồi vọt đi. Chẳng ai dừng lại giúp đỡ chúng tôi. Có lẽ từ xa họ đã trông
thấy anh em tôi bị đánh, nhưng lúc đi ngang họ chỉ đưa mắt liếc nhìn
hai người thanh niên nằm bất động dưới mặt đường như thể đó là hai khúc
cây mục nát vô dụng bị vứt ra đường. Tôi cắn răng chịu đau bò lại chỗ
anh Mẫn đang nằm, thấy anh vẫn thiêm thiếp. Toàn thân tôi đau buốt,
những chỗ bị đánh rát như bị bỏng, nhưng tôi cố hết sức lôi anh Mẫn vào
bên vệ đường vì trời đã tối mịt, nhỡ có chiếc ô-tô hay xe tải nào chạy
đến hãm thắng không kịp thì khốn to. Khó nhọc lắm tôi mới lôi anh Mẫn
vào vệ đường. Chỗ này toàn đất đỏ ngấm nước mưa thành bùn lầy nhão
nhoẹt. Tôi không rõ anh bị đánh vào đâu mà ngất đi như thế, có lẽ vào
đầu, nhưng trời tối quá, chẳng thấy gì nên tôi đành ngồi phệt xuống đất
bên cạnh anh, chờ đợi. Một lát sau tôi nghe tiếng anh rên khe khẽ. Mừng
quá! Như vậy là anh thoát chết. Tôi ghé sát mặt anh, hỏi:
“Anh đỡ chưa? Thấy anh ngất đi, em sợ quá.”
“Em có sao không?” Anh hỏi tôi.
“Không, em chỉ bị vài cú đánh vào
vai, vào lưng, mấy lại vào mông. Em không sao, bây giờ chỉ còn thấy đau
đau, chắc vài hôm là khỏi. Anh thì bị nặng quá. Chỉ có cách nhờ ai có xe
bò chở anh vào làng nhờ người săn sóc các vết thương, chứ nằm ngoài này
biết bao giờ mới có người cứu.”
“Tối lắm rồi, trâu bò đã đánh về chuồng từ chiều, không có hy vọng nhờ ai được đâu. Em có khăn mùi-xoa trong túi không?”
“Có.”
“Em lấy khăn buộc vết thương trên
trán anh để cầm máu. Xong đi tìm hai thanh trúc làm gậy, mình chỉ có
cách đi bộ vào làng thôi. Anh đi được. Quãng ba cây số nữa là đến Văn
Thượng, ta có anh em trong đấy.”
Tôi làm theo lời anh Mẫn căn dặn.
Tôi cũng tìm được bi-đông nước của tôi rớt lại lúc xe bị cướp. Tôi đỡ
anh Mẫn ngồi dậy, ghé bi-đông vào miệng anh. Uống xong ngụm nước, anh có
vẻ tỉnh táo lại đôi chút. Đợi anh khỏe thêm chút nữa, tôi vực anh đứng
dậy rồi dìu anh lết đi từng bước nhắm hướng Văn Thượng đi tới.
Hai chúng tôi trông như hai bóng ma xệch xạc đi trong đêm tối.
Cả tôi lẫn anh Mẫn đều im lặng, cố
vét tất cả sức lực mong manh còn sót lại trong cơ thể để dò dẫm từng
bước khó nhọc. Đi một thôi đường ngắn, anh Mẫn lại bảo tôi nghỉ chân năm
phút rồi mới đi tiếp. Trong lúc đi như thế, tôi nhớ tiếng hô to của gã
nào đó trong bọn vừa đánh chúng tôi, “Việt Minh! Việt Minh! Đánh bỏ mẹ
hai thằng Việt Minh đi!” Tiếng hô đầy vẻ thù hằn. Nó không phải tiếng
nói của con người với con người. Nó như tiếng gầm của con thú hoang này
trước một con thú hoang khác giống. Nó biểu lộ sự thù ghét một cách thái
quá đến độ dị kỳ, khó có thể giải thích. Lúc đó, tôi chỉ mơ hồ phỏng
đoán rằng họ tưởng lầm anh em chúng tôi là Việt Minh, và lý do họ thâm
thù Việt Minh có lẽ vì họ có người thân bị Việt Minh sát hại. Hay họ
theo Pháp chỉ giản dị vì quyền lợi riêng tư của họ thắt chặt vào sự đô
hộ của người Pháp trên đất nước này? Ở bề mặt là thế, hiểu một cách hời
hợt là thế, nhưng mãi về sau, khi đã sống chín chắn hơn, tôi nghĩ sự thù
ghét đó chẳng phải bởi bọn chúng và anh em chúng tôi ở hai chiến tuyến
thù nghịch, sống mái quyết một mất một còn, mà từ một tâm thức sâu kín,
khó nhìn thấy hay lý giải được. Lúc đó đầu óc tôi còn quá non nớt để
nhận thức một sự thật cơ bản là con người vốn ghét con người. Con người,
chỉ con người mà thôi, giết nhau không phải vì miếng ăn. Loài vật giết
nhau vì định luật sinh tồn tự nhiên, nhưng con người giết nhau chỉ vì
không chấp nhận kẻ khác không giống mình.
Trịnh Y Thư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét