Người ta thường dùng chữ di tản, một từ tương đối đẹp để mô tả một hành động không đẹp: bỏ chạy, hay chạy làng. Tôi dùng nguyên chữ “Đào Ngũ và Bỏ Chạy” chỉ hành động hèn hạ của tôi, một sĩ quan trước đó đã từng cùng thuộc cấp và đồng đội lao vào tử địa, coi cái chết nhẹ tựa lông-hồng.
Khi Ban Mê Thuột thất thủ (11-3-1975) tôi đang là sĩ quan quân đội biệt phái làm trưởng toán trực Trung tâm hành quân Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Khu I –phụ trách 6 tỉnh, thị: tính từ cực bắc là Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế; Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Tín, và Quảng Ngãi. Dư luận xôn xao không biết Vùng I có an toàn không, khiến Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn I kiêm Quân Khu 1, phải lên tiếng trấn an, cho biết ông quyết tử thủ Huế. Những ai sinh trưởng hay sinh sống tại miền Trung đều hiểu rằng, mặc dù Đà Nẵng là Trung tâm Quân sự, Hành Chánh, và Kinh Tế nhưng Huế là biểu tượng tinh thần. Mất Huế là mất cả miền Trung. Cho nên bảo vệ Huế là lẽ sống còn của chính quyền. Với uy tín của một vị tướng chiến trận, liêm khiết, thương yêu thuộc cấp và thương dân, tuyên bố tử thủ Huế của Tướng Trưởng đã từng trấn an được dân Huế trong mùa Hè Đỏ Lửa 1972, và lần này cũng vậy.
<!>
Nhưng tình hình cao nguyên biến chuyển từng ngày theo chiều bất lợi cho nên lần này uy tín của Tướng Trưởng cũng không duy trì nổi tình trạng ổn định được lâu. Tôi liên lạc với Trung Tâm Hành Quân Bộ Chỉ huy Cảnh sát Vùng 2 (TTHQ/BCH/CS/V 2) được họ cho biết Bắc quân hàng đêm di chuyển từng đoàn xe vận tải thắp đèn sáng choang trên các sườn núi nhưng không có phi cơ oanh tạc. Sau hiệp định hòa bình 1973, không bên nào được tấn công khu vực do bên kia kiểm soát. Tôi hỏi TTHQ Ty cảnh sát Quảng Đức được họ cho biết tình hình yên tĩnh nhưng một khi bị bao vây thì sẽ không biết chạy lối nào.
Khi toàn bộ quân dân Quân đoàn II bỏ chạy khỏi Pleiku và Kontum ngày 17/3 thì tình hình hoảng loạn tại Vùng 1 không ai có thể kềm hãm được. Dân Quảng Trị đã bỏ chạy vào Đà Nẵng. Nhiều người gồng gánh đi bộ vượt qua Huế, vượt đèo Hải Vân, đoạn đường dài hơn 150 cây số. Tại Đà Nẵng chính quyền không còn khả năng tiếp đón đồng bào. Tất cả những người không có thân nhân, bạn bè tràn vào ở trong các trường học và phải tự túc. Tôi nhận thấy chỉ riêng vấn đề dân chúng di tản lúc đó đã là một gánh nặng mà chính quyền không gánh vác nổi, chưa kể tới các đoàn quân rã ngũ. Chỉ riêng vấn đề dân tị nạn cộng sản cũng đủ khiến Đà Nẵng rối loạn.
Tôi gọi TTHQ Ty cảnh sát Đà lạt, họ cho biết tình hình yên tĩnh, chính quyền còn nguyên nhưng dân chúng đã bỏ đi hết, thành phố vắng hoe. Trừ chính quyền Quảng trị chạy vào tạm trú tại Huế, chính quyền các tỉnh khác trong Vùng 1 vẫn yên tại chỗ trong khi mọi người dân đều lo lắng. Nhiều gia đình tại Đà Nẵng chen nhau mua vé máy bay về Saigon. Vé máy bay chợ đen lên giá $100 ngàn 1 vé (lương tôi, trung úy, một vợ 3 con chỉ có $32 ngàn/ tháng; gạo $10 ngàn/1 tạ). Một anh bạn thân từ hồi ở Trung đoàn 2 Bến Hải, bác sĩ Nguyễn Văn H., luôn theo sát tôi hỏi tình hình. Tôi trấn anh một cách chân tình “Huế vẫn tử thủ”. Anh tin tôi bởi vì anh biết tôi thân tình với bà vợ Tướng Trưởng.
Bà vợ Trung tướng Trưởng là em họ tôi (bà là trưởng nữ của chú ruột tôi, nhà văn Thạch Lam), nhưng chị hơn tôi 9 tuổi lại sống với nhau từ nhỏ nên tôi vẫn gọi bà là chị. Hai chị em tôi thân nhau (cho tới tận bây giờ –2023 tại Hoa Kỳ– mỗi tuần hai chị em đều điện thoại cho nhau ít nhất một lần). Thời đó (tại Đà Nẵng) mỗi tuần tôi tới ăn cơm với chị một buổi trưa. Tuần nào không tới thì chị điện thoại hỏi. Tướng Trưởng đi hành quân tối mới về, các cháu đi học, hai chị em thường ngồi ăn, nói chuyện gẫu ở cái bàn trong bếp. Nhưng trong thời gian sôi động đó tôi quyết định trưa nào cũng ghé chị ăn cơm, mục đích để xem Tướng Trưởng còn tử thủ Huế không. Dĩ nhiên tôi không hỏi chị câu đó, vì chuyện nhà binh chị cũng không thể biết. Nhưng khi nào Tướng Trưởng bỏ Huế thì chị và các con phải ra đi; chắc chắn tôi phải là người đầu tiên chị cho biết. Tôi đã có hai năm chiến đấu dưới quyền chồng chị khi ông là Tư lệnh Sư đoàn 1 nên tôi hoàn toàn tin tưởng tư cách của ông.
Trong lúc đó, một thương thuyền lớn, tầu Trường Thành, do Thủ tướng trưng dụng ra bốc quân dân di tản, đang neo tại bến cảng ngay trước tư dinh tư lệnh. Hàng ngày tôi và chị tôi đứng trên tầng hai tư dinh quan sát chiếc tầu thấy cả mấy ngàn người dân đã leo lên chiếm chỗ trên tầu. Ty cảnh sát Đà Nẵng được lệnh giải tỏa chiếc tầu. Nhưng tôi thấy các sĩ quan cảnh sát, bạn đồng nghiệp của tôi, đang vừa cầm loa kêu gọi đồng bào rời khỏi chiếc tầu cho có lệ, nhưng thực tâm họ không những không giải tỏa mà còn đưa thân nhân họ lên tầu.
Chưa có lệnh bỏ Huế nhưng dường như một số cơ quan hành chánh đã di tản một phần vào Đà Nẵng. Trường đại học Luật Huế của tôi cũng đã mang toàn bộ hồ sơ, văn kiện vào Đà Nẵng. Bộ Tư lệnh Cảnh sát ở Saigon ra lệnh cho tôi yêu cầu ty Cảnh sát Huế tới đón Đức Bà Từ Cung (thân mẫu Vua Bảo Đại). Huế trả lời là Đức Từ Cung không chịu di tản. Saigon lại ra lệnh Đức Từ Cung muốn mang theo bất cứ cái gì cũng phải giúp bà. Tin đi tin lại mấy lần. Cuối cùng Huế cho biết “Bà ở lại để chờ Vua Bảo Đại trở về!” Lúc đó tôi không hiểu bà lấy tin đó ở đâu. Sau này mới biết vào giai đoạn cuối, Pháp có tham dự trực tiếp trong ý định tìm một giải pháp cho Việt Nam.
Trong cơn hoảng loạn, một thiếu úy quân nhân biệt phái là sĩ quan trực TTHQ Cảnh sát Quảng Trị, tạm đóng tại Huế, gọi về tôi báo cáo là thấy tòa hành chánh và các ty sở di tản mà không có lệnh lạc gì cho Ty cảnh sát Quảng Trị. Tôi đưa máy cho Đại Úy Dũng, Trung Tâm trưởng. Đ/u Dũng chỉ thị “cứ bình tĩnh, sẽ có yểm trợ!” Nhìn tay Đ/u cảnh sát này, tôi thấy anh ta chỉ thị láo; ngay cả Bộ chỉ huy cảnh sát Vùng 1 cũng còn chưa biết ra sao lấy gì mà yểm trợ các tỉnh. Ngay sau đó, chờ cho tay Đ/U trưởng phòng sang phòng khác, tôi bèn gọi anh thiếu úy, nói ngắn gọn “Bạn hãy tự túc!” Sợ anh ta không hiểu tôi nhắc lại rồi hỏi anh ta hiểu không? Anh ta trả lời “Hiểu!” Từ đó tôi không gặp lại anh ta. Vốn dĩ tôi không quen anh ta và cũng chưa gặp anh ta bao giờ. Tôi biết ở Đà Nẵng nhiều người theo dõi gia đình Tướng Trưởng, gia đình tôi và gia đình nhà văn Duy Lam, Trung tá—ba gia đình là anh chị em họ–. Bởi vì nếu một trong 3 gia đình này mà ra đi thì ai còn tin lời thề tử thủ của Tướng Trưởng nữa.
Rồi một buổi trưa, sau khi tôi ngồi yên vị, bà chị họ cho biết “Tổng thống ra lệnh bỏ Huế!” Tôi sững người, bật khóc. Thế là hết. Mất Huế thì không thể giữ được Vùng 1. Vùng 2 thì đã mất rồi…làm sao giữ được miền Nam. Đồng thời tôi cũng biết rằng từ nay Tướng Trưởng sẽ không còn là gì cả; một bại Tướng thì không còn là gì cả! Tình cảm của tôi đối với ông rất nhẹ tình gia đình, ông chỉ là một anh rể họ; mà nặng hơn chính là tình giữa một thuộc cấp và vị Tư lệnh của mình. Ông là một vị tướng chiến trận, luôn có mặt bên quân sĩ khi lâm trận…Tôi và đồng đội đều cảm thấy yên tâm mỗi khi có hiện diện của vị tư lệnh của mình trong thời gian tôi lao vào lửa đạn vùng giới tuyến. Bây giờ tôi khóc vì thương ông, một vị tướng chiến trận được quân sĩ kính mến. Yên lặng một lúc, tôi nói với bà chị họ, “Chiều nay anh về, chị nói với anh là trong 7 năm qua, dưới quyền anh, em không làm gì phiền cho anh. Nhưng hôm nay em đào ngũ!” Bà Trưởng chỉ còn biết nói, “Tình thế này thì ai cũng tự lo lấy thôi!”
Một chập sau một người Mỹ từ nẫy ôm chiếc máy vô tuyến ngồi im lặng ở bậc thềm ngoài hàng hiên, bây giờ liên lạc với ai đó một chặp khá lâu rồi vào nhắc Bà Trưởng ra đi. Tôi lái chiếc xe jeep của tôi, theo chiếc xe jeep của bà. Cả hai cùng theo chiếc xe của người Mỹ ra bãi đáp trực thặng ở cuối đường Độc Lập, cách tư dinh tư lệnh không xa. Bà Trưởng bước lên trực thăng, tôi nhìn chị nói, “Vĩnh biệt chị!” Chị vội nói, “Tâm nói gì ghê vậy? Anh còn ở đây mà!” Trong thâm tâm tôi nghĩ, “Anh Trưởng cũng chẳng thể làm gì nổi để xoay chuyển tình thế!”
Trên đường về tôi tạt ngang nhà anh BS H. nói ngắn gọn “Anh đi đi, lệnh bỏ Huế rồi!” Sau đó tôi tới gặp Đại tá Giám đốc BCH Cảnh sát Vùng 1 của tôi để xin phép một tuần về tìm mẹ tôi thất lạc khi Ban Mê Thuột thất thủ. Đại tá vẫn oai nghiêm trong bộ quần áo ngụy trang cảnh sát dã chiến mầu nâu nhạt ngồi đằng sau chiếc bàn rộng. Đại tá thân mật và tự tin nói, “Ừ, anh về tìm mẹ rồi trở lại. Tình hình có gì đâu, tôi còn ngồi đây mà.” Nói rồi Đại tá kêu ông Đại úy chánh sở nhân viên lên làm giấy phép cho tôi. Tôi rời Bộ chỉ huy luôn, không cần chờ lấy giấy phép.
Về nhà, tôi được bà hàng xóm, vợ ông Thiếu tá Cường, khóa 13 Đà Lạt, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 pháo binh (của Sư Đoàn 3) cho biết Thiếu tá Cường nhắn bà hãy theo gia đình tôi khi nào gia đình tôi di tản. Ông ấy tin nơi tôi có lẽ vì biết tôi là em họ bà Tướng Trưởng.
Tôi và vợ xắp xếp tất cả 7 va li, đánh số từ 1 tới 7 theo thứ tự đựng những thứ quan trọng nhất. Nếu cần vứt bỏ thì cứ theo thứ tự mà làm. Nhưng những thứ quan trọng nhất là sữa, bình sữa của con, giấy chích ngừa của con, bằng cấp của tôi, nước uống thì tôi đích thân đeo trước ngực, coi như những thứ “bất khả ly thân”. Tôi cũng lận lưng khẩu ruleau có 6 viên đạn. Tôi dặn vợ tôi, “Khi lên tầu, ở bất cứ đâu cũng đừng ngồi cạnh anh, bởi vì bọn cướp chỉ cướp người yếu thế là người đi với gia đình. Anh sẽ luôn luôn ngồi trước mặt em, xem như người dưng. Một sĩ quan đi một mình thì chẳng thằng cướp nào ngu dại đụng tới làm gì. Nhưng nếu bất cứ thằng nào cướp đụng chạm tới em thì anh sẽ bắn ngay. Khi đó em bình tĩnh.” Tôi dặn vợ rất kỹ trường hợp xử thế như vậy để vợ tôi yên tâm. Tôi và vợ chạy tới bố mẹ và các em vợ chào giã từ. Cuộc giã từ ngắn gọn, không cảm xúc vì nỗi chết gần kề. Cha con anh chị em đều phải tự tìm đường sống, không ai cưu mang ai nổi.
Buổi tối, chiếc xe jeep của Th. Tá Cường chở 2 gia đình với đồ đạc là chật chỗ. Tôi phải ngồi trên nắp thùng xe và tài xế cho xe chạy từ từ qua cầu De Lattre sang quận 3. Tới đầu cầu xe phải dừng lại trước hàng rào kẽm gai. Tôi bước xuống, vượt qua hàng rào kẽm gai, nói dối với toán lính gác là tôi đưa gia đình sang bến tầu đi Saigon, còn tôi phải ở lại với các anh em chứ! Xong câu nói dối, tôi cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã. Bất cứ một sĩ quan cấp chỉ huy nào, dù là nhỏ nhất—trung đội trưởng—cũng đã từng hiên ngang hướng dẫn thuộc cấp xông vào lửa đạn, tôi không ngoại lệ. Nhưng hôm nay lời nói dối và sự bỏ chạy của tôi phản lại tư cách bình thường của một cấp chỉ huy. Nhưng tôi biết làm sao hơn trong tình thế này!
Toán lính mở hàng rào cho xe tôi đi. Tới bến tầu nhỏ của Sở Tiếp- Vận Vùng 1, hai gia đình mang hành lý lên một chiếc tầu nhỏ. Trên đó cũng đã có một số người. Trời tối, không nhìn rõ mặt người. Tôi thấy yên- tâm vì nếu có người quen cũng không nhận ra tôi, và mấy người lính cũng không nhận ra lon trung úy của tôi. Chúng tôi ngồi một góc trên sàn tầu. Toán lính trên tầu chỉ có vài người, không có sĩ quan, họ đang sắp xếp mọi người trên sàn tầu và mọi người phải theo lệnh họ. Tôi tháo hai bông mai, giả làm lính cho dễ “nhận lệnh”. Tôi chỉ sợ họ đuổi xuống. Chờ một hồi lâu, chiếc tầu cũng ra khơi. Tôi đã mừng, không ai nói với ai lời nào. Nhưng niềm vui chẳng lâu, khi tầu ra tới cửa biển thì được lệnh quay trở lại. Toán lính cho biết tầu không đi nữa. Tôi nghĩ cấp chỉ huy của họ ra lệnh giữ tầu lại cho thân nhân họ rồi. Hai gia đình chúng tôi đành phải xách hành lý lên bờ. May quá! Người tài xế vẫn còn chờ. Trở về cư xá, nhà tôi đã bị dân vào phá toang, gạo, mắm bị mất, đồ đạc vứt lung tung. Nhà bà Th. Tá Cường ở bên cạnh cũng vậy.
Tôi nhờ chú tài xế chở tới tư dinh tư lệnh. Cạnh dinh tư lệnh, cách một hàng rào tôn, có cửa nhỏ thông nhau, có một cái kho rộng, trước khi Trung Tướng Trưởng ra làm tư lệnh thì đây là kho bỏ trống, ngày xưa chứa gạo của Vùng 1. Từ ngày Tướng Trưởng ở chỗ này thì khu vực kho vẫn bỏ trống chỉ có vài chú lính tạm trú hàng ngày. Trong mấy ngày này, có vài gia đình sĩ quan Sư đoàn 1 quen biết với bà Trưởng ngày xưa từ Huế chạy vào đây tạm trú, tổng cộng cũng vài chục người.
Cá nhân tôi chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, chức vụ không quan trọng. Nhưng nhiều người ở địa phương biết tôi là bà con thân thiết với gia đình Trung Tướng Tư lệnh, dòng họ tôi lại là Việt Nam Quốc Dân Đảng gốc, bản thân tôi cũng là thành phần Việt-quốc tích cực tại miền Trung. Hoạt động cho Việt-quốc nên tôi biết dân địa phương ở 6 tỉnh thị miền Trung ghê gớm lắm. Họ chia làm hai phe đối đầu nhau quyết liệt: Không Việt- quốc thì phải là Việt cộng, không có lưng chừng. Trong tình hình đó tôi thấy nếu không thoát khỏi Đà Nẵng thì tôi phải tự tử. Buổi tối, tôi gọi vợ ra chỗ vắng, tôi bảo, “Trong 24 tiếng đồng hồ nữa, nếu mình không thoát khỏi đây thì anh tự tử. Còn em và con thì để em quyết định.” Nghe xong, vợ tôi rướm lệ, giọng run run, “Chết thì cùng chết!” Ngay sau đó, tôi nghiêm giọng nói với vợ, “Thôi, em quyết định như vậy được rồi. Bây giờ không phải lúc khóc. Em hãy nín đi để anh đi tìm đường thoát.” Sau này, năm 1985, sau khi ra tù, tôi ghé lại Đà Nẵng, gặp một người lính cũ đang sửa đồng hồ trên lề đường chợ Mới. Vừa gặp tôi, anh giật mình, vui mừng nhưng vội kéo tôi vào một tiệm café vắng, “Úi chà! Sao ông dám về đây?” “Tôi cải tạo hơn 9 năm rồi mà!” “Nhưng ông về đây họ vẫn bắt ông lại được!” Thế là hai anh em hỏi thăm nhau mấy câu ngắn rồi vội chia tay, cũng để an toàn cho anh ta. Sau đó tôi tới thăm anh BS H. bạn thân năm xưa. Vừa gặp tôi anh mừng nhưng cũng hết hồn vội đưa tôi sang qua đêm tại một địa chỉ khác. Dân miền Trung, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi rất quá khích, theo bên nào thì quyết liệt theo bên đó, tiêu diệt bên kia.
Thế là mới từ chiều tới giờ, ngày 25/3/75, gia đình chúng tôi đã trải qua bao nhiêu biến động. Buổi tối, từ Saigon, bà Trưởng gọi ra cho biết hôm sau có phái đoàn Trung ương Hội bảo trợ gia đình binh sĩ ra thăm thì gia đình tôi theo phái đoàn mà vô Saigon. Tôi không tin phái đoàn sẽ ra trong tình hình này. Tôi gọi điện thoại tới Trung tá Đức, chánh văn phòng Tư lệnh hỏi xem Quân đoàn có di tản không? Ông Đức trả lời là không biết, chỉ thấy một đoàn công voa đang đậu trước Bộ Tư Lệnh không biết đi đâu, anh muốn đi thì tới. Lúc đó tôi nghe nói đường phố đã hỗn loạn, cướp bóc. Tôi chỉ nghe nói thôi chứ chưa chứng kiến. Tuy nhiên đi với gia đình thì nguy hiểm nên tôi không đi.
Bất thình lình vào rạng sáng 26/4, chú tài xế của Bà Trưởng tìm tôi cho biết bên Tổng Lãnh Sự Mỹ có xà lan sắp ra khơi. Tôi vội lấy chiếc xe số ẩn tế của bà Trưởng chạy sang khu nhà kho đón gia đình, tôi bảo chú tài xế lấy chiếc khác chạy theo. Chỗ xà lan đậu cũng cùng đường với dinh Tư Lệnh, chỉ cách vài trăm mét. Tới nơi, chú tài xế và tôi bỏ xe chạy tới xà lan. Chú tài xế còn hỏi, “Chìa khóa xe để đâu hả trung úy?” Tôi bảo cứ để ở xe cho ai muốn lấy xe thì lấy. Chỗ vào cầu tầu có lính Hoa Kỳ cầm súng gác. Tôi cảm thấy yên tâm. Cầu tầu đông như kiến, mọi người đang chen lấn. Tôi đưa vợ con tôi lên xà lan, mấy chiếc va li bị vất hết trên bờ. Tất cả các album đều ở trong vali nên bị mất hết, giờ đây gia đình tôi không có tấm ảnh nào trước 1975. Khoảng cách giữa xà lan và bến cảng rất hẹp, sóng nước đánh chiếc xà lan rập rình làm bước trên cái cầu ngắn khó khăn, dễ rớt xuống nước. Đi trước tôi trên chiếc cầu nhỏ hình như có người bị té xuống khe nước nhưng không còn ai để ý tới người bị té nữa. Mọi người chỉ chăm chú tìm đường sống. Tôi chăm chú tới vợ và ba đứa con nhỏ của tôi, đứa lớn nhất 4 tuổi, con gái; đứa kế 2 tuổi, con trai; và đứa út 1 tuổi, con gái, vợ tôi bế trên tay. Vợ tôi cũng đang mang bầu. Lên được xà lan trời cũng mờ sáng. Tôi ngồi đối diện với vợ và ba đứa con. Chung quanh mọi người chen chúc ngồi sát nhau. Bất thình lình một anh lính trạc ngoài 20, mặc đồ Biệt động quân, khuôn mặt tròn, đầu cạo trọc, trông tướng cô hồn, đưa ra cái kính mát Ray-Ban hỏi mọi người ai muốn mua. Anh cho biết vừa từ Huế chạy về không có tiền nên cần bán. Mọi người lặng thinh, sợ sệt, không biết anh chàng lính này định giở trò gì đây. Với kinh nghiệm sống với lính tác chiến, sẵn lúc cũng cần một đệ tử cận vệ, tôi bảo anh lính: “Chú cất cái kính làm kỷ niệm để nhớ ngày hôm nay, không cần bán, cứ đi với anh.” Thế là tôi vững tâm hơn, trong người có khẩu rouleau, lại có 1 “cận vệ” là lính BĐQ, tôi đâu còn ngán thằng cướp nào nữa.
Khi đầy người, chiếc xà lan được đầu kéo đưa ra ngoài biển rồi đầu kéo tách xà lan. Chiếc xà lan bị bỏ nằm bất động ngoài biển chứa cả mấy ngàn người. Chẳng ai biết rồi xà lan đầy người sẽ ra sao, cứ ngồi chờ. Vô số thuyền nhỏ bu quanh đưa người lên xà lan. Từ xà lan nhìn xuống những chiếc thuyền con như những chiếc lá tre. Chiếc xà lan dường như không còn chỗ. Người trên xà lan thì muốn ngăn cản người dưới thuyền, bảo họ trên xà lan hết chỗ rồi, cứ ngồi dưới thuyền mà chờ tầu tới vớt; người dưới thuyền thì muốn leo lên cho an toàn.
Nắng đã lên cao, quãng trưa, một chiếc tầu của Hải quân Mỹ tới cặp với xà lan. Chiếc tầu tên Pioneer Contender, to khổng lồ. Thang được hạ xuống cho mọi người lên. Mọi người được lệnh bỏ lại vũ khí trước khi lên tầu. Người già, trẻ em và phụ nữ được cho lên trước. Sau khi vợ con tôi lên tầu thì tôi không bận tâm gì nữa, tôi và người “cận vệ” cứ yên tâm ngồi ở xà lan, chờ mọi người lên hết rồi mình lên sau cùng. Trong lúc đó người “cận vệ” đi lang thang lục tìm trong các túi, các đồ đạc, quần áo mọi người bỏ lại đầy trên xà lan. Cuối cùng người “cận vệ” cho tôi biết tìm được một số tiền và mấy cái đồng hồ. Nghe vậy tôi yên tâm và mừng cho anh ta. Anh ta đưa tôi chọn một cái đồng hồ, nhưng tôi không muốn lấy. Anh ta năn nỉ mãi tôi mới lấy cái đồng hồ nhỏ, hiệu Rado có giây đeo cổ, kiểu hơi lạ làm kỷ niệm.
Khoảng 6 giời chiều ngày 26/3, tôi vứt khẩu súng xuống biển, hai anh em tôi là 2 người cuối cùng rời xà lan leo lên tầu Mỹ. Tầu quá đông người, nghe nói có tới 7 ngàn người. Những người lên trước được đưa xuống các hầm tầu. Tôi và người “cận vệ” chia nhau hai hướng để tìm vợ con tôi, điểm hẹn là chỗ khởi hành. Trên tầu có tới mấy cái hầm, rộng và sâu. Leo xuống, leo lên bằng cái thang sắt gắn sát vách tầu cũng mỏi rã cánh tay. Hầm tầu sâu và rộng, rất đông người. Muốn tìm thân nhân phải leo thang xuống tận nơi. Tôi mới leo xuống tìm kiếm được một hầm và leo lên thì gặp người “cận vệ” cho biết “Em đã tìm thấy chị và mấy cháu rồi, ở dưới hầm đằng kia!” Tôi theo anh ta leo xuống hầm. Dễ có mấy trăm người dưới hầm. Người nằm ngồi la liệt. Chưa thấy ai đi tiêu ra sàn, nhưng tôi thấy người ta đi tiểu ra sàn. Dù sao tình trạng cũng rộng rãi thoải mái hơn trong nhà tù. Trưa hôm sau tới Cam Ranh.
Chiếc thang sắt bám sát vách tầu dựng đứng nên tôi không thể ôm đứa con út còn ẵm ngửa mà leo lên được. May nhờ chú “cận vệ” khỏe bế cháu lên dùm. Sàn tầu bằng sắt, buổi trưa nóng bỏng. Mấy người mất giầy dép phải cuốn bao ny- lông hay giấy dưới bàn chân. Mọi người được đoàn xe cam nhông nhà binh chở tới khu tập trung là một trại gia binh đang xây dang dở, đã có mái nhưng sàn mới đổ cát. Ở trước cửa khu gia binh có bàn phát nước uống và thực phẩm cho người tị nạn.
Tôi để vợ con nằm trên cát với mọi người rồi vội ra tìm xe đò đi Phan Rang, nơi ông anh rể họ là bác sĩ Đoàn Trình làm trưởng ty y tế kiêm giám đốc bệnh viện tỉnh. Đoạn đường không tới 50 km nên cũng mau. Khi tới nơi, tôi thấy BS Trình đang ngồi với mấy người đàn ông ngoài hàng hiên. Thấy tôi, BS Trình giới thiệu ngay, “Đây! Người về từ mặt trận, mời người về từ mặt trận cho biết tình hình.” Tôi được giới thiệu một ông là phó tỉnh trưởng hành chánh Phan Rang, còn 3 ông kia là trưởng ty gì đó tôi quên rồi. Tôi nói ngắn gọn hiện nay Phan Rang còn yên tĩnh. Nhưng các anh cần theo dõi “thằng” CORDS (Civil Operations and Rural Development Service: Cơ quan Dịch vụ Dân sự và Phát triển Nông thôn). “Nó” còn thì còn yên tĩnh. Nhưng một khi “nó” hạ cờ thì chỉ 24 giờ sau rối loạn. Lúc đó các anh nên đi. Sau khi nghe tôi trình bày, các ông đó hẹn nhau ai về cũng tự chuẩn bị phương tiện tầu thuyền để khi đi thì rủ nhau. Sau đó BS Trình nhiệt tình lái xe ra Cam Ranh đón vợ con tôi về ngay buổi chiều.
Vợ con anh đã về Saigon hết nên gia đình tôi ở đó cũng thấy thoải mái, không phải e dè gì. Buổi tối, cháu gái út bị tiêu chảy và khóc quá. May ông anh rể là bác sĩ nên mọi chuyện mau chóng êm đẹp. Ngày ngày tôi đi bộ ra phố. Mọi người vẫn sinh hoạt buôn bán bình thường, không có vẻ gì là lo lắng. Khu nhà ở của bác sĩ trưởng ty khá rộng, từ nhà ra tới cổng cũng khoảng 100 mét sân. Ở được mấy hôm, một buổi tối tôi thấy trước cổng ầm ầm tiếng hàng đoàn xe cam-nhông chạy ngang. Trời tối, từ trong nhà nhìn ra không rõ nhưng cũng ước đoán được nhiều xe cam-nhông nhà binh. Lúc đó cũng nghe đồn có cướp bóc ở ngoài đường nên tôi không dám ra xem. Mấy người nhân viên trong nhà thương cũng tụ họp ngoài sân bàn tán chuyện nên đi hay ở. Tôi bàn với ông anh rể là nên đi. Ông anh rể nhất định không đi. Ông ấy nói rằng nếu ông ấy đi thì ai chăm sóc các bệnh nhân trong nhà thương. Tôi thuyết phục ông ấy rằng nếu Việt cộng vô ông cũng không được chữa bệnh. Cuối cùng, tới khoảng 5 giờ sáng thì ông ấy siêu lòng, quyết định đi. Lúc đó liên lạc với mấy ông bạn phó tỉnh và trưởng ty cũng không được. Các ông ấy kể cả Đại tá Tỉnh trưởng cũng đã bỏ đi mà không ai báo cho ông ấy biết. Sau này tôi mới rõ là chính sự lo âu quá đáng của mọi người nên các địa phương cứ ùn ùn bảo nhau bỏ chạy. Cấp lãnh đạo, như tỉnh trưởng, trưởng ty… cũng bỏ chạy trước cả thuộc cấp và dân chúng, chứ Cộng quân đâu đã tới.
Ông anh có chiếc xe jeep dân sự nhỏ, mầu trắng hiệu La Dalat lắp ráp trong nước. Trong nhà chẳng còn gì quí giá, ngoài các hộp sữa bột loại to, cao bằng 1 gang tay, dành cho con nít. Ông anh bảo tôi chất đầy phía sau xe. Nhờ vậy tôi cũng thấy yên tâm về thực phẩm đi đường. Tôi hỏi ông có súng không, ông ấy đưa cho tôi một khẩu carbin với chỉ có một băng đạn. Ông nói, “Đây là súng nhân dân tự vệ, anh được cấp từ lúc mới ra trường nhận nhiệm sở tại đây và anh chưa bắn phát nào.” Cây súng được ông cất kỹ trong hộc tủ gần 20 năm, chưa một lần sờ tới. Tuy súng đó lỗi thời, trong khi quân đội dùng súng AR 15, nhưng tôi cảm thấy yên tâm, vì nó là súng trường, đủ sức đe dọa đối phương và cũng đủ để tự vệ. Để chuẩn bị tâm lý cho ông anh bác sĩ quá hiền lành, chất phác, trong cơn loạn lạc, đầy bạo lực, tôi giải thích cho ông ấy, “Trong lúc anh lái xe, em chĩa súng ra ngoài. Bất cứ thằng nào chận xe em sẽ nổ súng ngay. Lúc đó anh cứ bình tĩnh chạy nhanh.”
Lúc hai anh em chuẩn bị thì sân nhà thương vắng tanh. Nhưng khi chiếc xe vừa chuyển bánh thì một đoàn xe hơi của các bác sĩ khác trong nhà thương đã theo sau. Họ đã chuẩn bị từ lâu rồi, chỉ chờ bác sĩ trưởng ty “dông” là “dông” theo. Chuẩn bị tinh thần cho ông anh quả không thừa. Vừa ra khỏi cổng đã thấy mấy người mặc đồ lính dơ súng bắt chiếc xe tải dừng lại để họ lên xe. Trên đường đi tôi thấy một đoàn công voa Biệt động quân. Có lẽ xe hết săng và họ đang muốn chặn xe dọc đường để “xin săng”. Nhưng xe tôi chạy ngang với mũi súng carbin chia ra ngoài trong tư thế sẵn sàng nên không bị trở ngại. Dọc đường, qua mấy cây cầu vẫn thấy binh sĩ địa phương quân canh gác. Tôi thấy tội nghiệp cho họ, những người chiến sĩ bị bỏ rơi! Nếu tôi không chạy thì cũng bị bỏ rơi như họ thôi. Một chút ngậm ngùi cho thân phận những người lính và sỹ quan cấp thấp.
Tới trung tâm thị xã Phan Thiết xe bị kẹt giữa hàng chục ngàn xe cộ đủ loại lớn bé, dân sự, quân sự. Nhưng bất thình lình hai ba quả pháo của Việt cộng rơi giữa thành phố khiến mọi người hoảng sợ chạy tán loạn. Trong phút chốc toàn thể trung tâm thị xã trống trơn. Hết sức ngạc nhiên khi thấy hàng chục ngàn xe cộ đủ loại đã biến đâu mất hết. Nhưng cũng may, chẳng thấy ai bị thương. Lúc đó ông anh tôi phải lái xe vào trú trong một con hẻm cũng đang có đông người. Bỏ xe tại đó, anh và gia đình tôi vào tá túc dưới một cái hiên nhà rộng.
Một lúc sau lại thấy có một đoàn xe quân đội, có cả thiết giáp hùng hổ đi về phía nam. Hy vọng đoàn xe quân đội đi được thì lát nữa mình cũng đi theo. Nhưng rồi chỉ ít phút sau, đoàn xe hùng hổ đó lại quay về, cũng vẫn hùng hổ! Phía trước bị Việt cộng đắp mô. Đường đi về Saigon bị chận. Mọi người bàn tới chuyện tìm thuê ghe để về Vũng tầu. Trong đoàn người ngồi quanh, có nhiều người dân địa phương Phan Rang. Một số người nhận ra anh tôi là bác sĩ giám đốc bệnh viện Phan Rang nên ngỏ ý mời ông đi cùng khỏi trả tiền thuê ghe. Thuê một ghe tốn khoảng gần 300 ngàn—tôi không biết số tiền đó trị giá mấy cây vàng nhưng lương tôi có 32 ngàn/tháng, trong khi 1 tạ gạo giá 10 ngàn—Trong tình thế đó tôi thấy gia đình tôi không có cách gì đi tiếp về Saigon nên tôi bảo với anh là “chị và các cháu đã về Saigon rồi, anh nên theo họ về đi. Còn em sẽ lái sẽ trở lại nhà anh.” Tôi dự trù trở lại nhà anh ở Phan Rang thì sẵn có mọi thứ lương thực cũng sống được, Việt cộng vô có bị bắt thì cũng đành. Nhưng ông anh nói một câu ngắn gọn khiến tôi cảm động “Anh sẽ đưa gia đình em về Saigon!” Tôi với anh vốn dĩ chưa có mối thâm tình. Trong 20 năm anh làm rể ông bác tôi, tôi chỉ gặp anh vài lần vì anh làm ở Phan Rang suốt thời gian đó. Vì thế mối ân này tôi nhớ đời.
Đến xế chiều thì ông bắt đầu tìm thuê một chiếc ghe. Mục đích chỉ để anh và gia đình tôi đi thôi. Nhưng những người xung quanh muốn xin góp tiền thuê để đi cùng. Anh lơ-là bảo tôi phụ trách thu tiền của những người xin đi theo. Dĩ nhiên phải xuống ghe người ta mới đóng tiền. Chủ ghe cho biết nhiều lính đã cướp ghe cho nên ông ta phải dấu kín chiếc ghe. Tới tối ông ta dẫn mọi người đi lầm lũi, âm thầm, tránh không để ai phát hiện mình có ghe. Từ buổi chiều, giữa sự hỗn loạn, đơn vị duy nhất còn quân kỷ là các sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà lạt. Họ vẫn quần áo trận gọn gàng, tay ôm súng garant tư thế hành quân, đi hàng một theo vị sĩ quan hướng dẫn. Tôi cũng thầm phục những vị sĩ quan cán bộ lãnh đạo lúc đó vẫn lặng lẽ thi hành nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh; họ đã không bỏ chạy như tôi và nhiều sĩ quan khác, kể cả các sĩ quan cao cấp.
Chiếc ghe không to lắm. Khoảng 30 người đã khiến chiếc ghe khẳm, nước mấp mé mạn ghe. Mùi dầu máy khiến tôi khó thở, nhưng tôi vẫn để vợ con dưới khoang cho an toàn, dù có hơi bị ngộp hơi dầu, còn tôi leo lên mui nằm mấp mé rìa mui; phải cố gắng nắm vào mui cho khỏi té. Ghe chạy rất gần bờ. Trong bóng đêm tôi thấy mờ-mờ hình dáng những ngọn núi dọc theo bờ biển chạy ngược con thuyền. Chẳng ai nghĩ tới việc góp tiền trả tiền ghe mà anh tôi cũng không nhắc việc thu tiền. Coi như không có họ anh cũng phải thuê cả chiếc ghe. Rồi tôi mệt quá ngủ quên. Không rơi xuống biển là may.
Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Người ta nói đây là Long Hải. Khi lên bờ có các sĩ quan địa phương chào đón hướng dẫn. Cũng có phương tiện đón đồng bào vào khu tạm cư. Ông anh chào tạm biệt tôi để về Saigon. Bất thình lình tôi trông thấy gia đình mẹ vợ tôi cũng vừa mới ở thuyền lên. Rất ngạc nhiên làm sao mà gia đình vợ tôi cũng chạy kịp vào chốn này. Không có ông bố vợ. Ông bố vợ vì có hai bà nên kẹt lại tại Đà Nẵng với bà cả. Mẹ vợ tôi đi với mấy đứa em theo sự hướng dẫn của người em kế vợ tôi, cũng là quân nhân, hạ sĩ quan. Vừa nhận ra nhau cũng không hỏi thăm gì nhiều, bởi vì có gì đâu mà hỏi, vừa mới chia tay cách mấy hôm mà; mà cũng có giúp nhau được gì đâu. Hai bên chào nhau chia tay không hẹn ngày gặp lại. Gia đình vợ tôi lên xe chính quyền địa phương đón về trung tâm tạm trú, còn tôi đưa gia đình về Saigon.
Ngay khi rời Đà Nẵng tôi đã có ý nghĩ miền Nam sẽ bị mất và tầu Mỹ ở ngoài khơi sẽ đón những người nào chạy ra được để di tản. Bởi vậy tôi luôn dự tính về một thành phố biển để dễ ra khơi. Khi gặp mấy sĩ quan tiểu khu Bà Rịa đang đón dân tị nạn, tôi hỏi thăm người bà con cũng là bạn học thân với tôi từ lớp đệ thất, đang là sĩ quan ở tiểu khu. Bà Rịa là thị xã nhỏ, mấy người sĩ quan tiểu khu biết liền và chỉ dẫn đường tới nhà Đại Úy Bình, lúc đó đang làm tiểu đoàn phó một tiểu đoàn địa phương quân. Họ bảo cứ xuống bến xe hỏi nhà Đại Úy Bình là người ta chỉ. Tôi hy vọng gặp Bình sẽ mô tả cho Bình biết tình hình mà đào ngũ rồi chuẩn bị ghe để ra khơi tìm tầu Mỹ. Ở Bà Rịa gần biển dễ đi quá mà Bình lại là sĩ quan ở địa phương lâu năm. Nhà Đ/U Bình ở ngay trước chợ, rất dễ tìm. Vừa vào tới nơi, tôi tự giới thiệu là anh em họ và cũng rất thân với Bình từ Đà nẵng chạy về. Nghe thấy vậy, chị vợ, tôi mới gặp lần đầu, không một lời hỏi thăm, trả lời lạnh lùng “Anh Bình đang đi hành quân.” Rồi chị ta mặc áo dài chuẩn bị đi. Chị ta không muốn tiếp. Tôi không còn cách nào ở lại để rủ Bình cùng nhau tìm đường ra biển. Tôi tiếc một cơ hội cho cả tôi và Bình. Sau này, Bình ra tù sau mấy năm cải tạo, gặp tôi nghe kể lại cũng lấy làm tiếc.
Trên xe đò về gần tới Saigon, có nhiều trạm kiểm soát quân nhân rã ngũ, nhưng rồi cũng chẳng ai bị giữ lại. Đông quá rồi giữ họ thì giải quyết ra sao? Mọi chuyện hỗn loạn đang tiến về Saigon. Mẹ tôi còn bị lạc ở Ban Mê Thuột, may có người bạn giới thiệu với ông bà cụ già người Bắc di cư 1954 tốt bụng, ở trong xóm lao động đầu cầu Đa Kao, phía Gia Định, cho ở nhờ. Ông bà cụ lại nhường cho gia đình tôi cái giường chính ở giữa nhà khiến tôi ái ngại quá. Qua những năm tháng nghèo, lang bạt, rồi chiến tranh qua nhiều làng quê, tôi hiểu là những người nghèo luôn tốt bụng. Khi giầu-có người ta trở nên khác! Nếu không có ông bà cụ tốt bụng đó không biết gia đình tôi sẽ ra sao. Trên đoạn đường di tản suốt từ miền Trung vào tới Saigon, rải rác trên từng thành phố, có hàng vạn gia đình quân nhân di tản không có chỗ tá túc như tôi. Kể ra thì cũng chua chát cho người lính chiến, họ và gia đình họ được gì trong cuộc chiến đang diễn ra? Khi bại trận thì số phận họ còn chua chát hơn nữa. Trước kia nơi nào có dân tị nạn thì chính quyền lập trại tạm cư, nhưng lần này chính quyền còn lo chạy trước, ai ở đó mà lo cho người tị nạn. Ông bà cụ có một người con làm Đại đội trưởng còn đang ở mặt trận, và một người làm Trung úy Hải quân đóng ở căn cứ dưới Long An. Anh trung úy Hải quân về đón bố mẹ xuống căn cứ ở cùng để khi ra đi sẽ đi cùng. Nhưng ông bà cụ từ chối, bảo phải chờ anh con trưởng còn đang ở mặt trận. Anh ta hỏi tôi có muốn theo anh ta không? Tôi hỏi bao giờ đi? Anh ta nói chưa biết, nhưng các cấp chỉ huy đã mang gia đình xuống căn cứ hết rồi. Trên tầu cũng tích trữ sẵn nước và lương thực, dầu nhớt đủ dùng trong 6 tháng. Vì chưa biết chắc ngày nào đi nên tôi không theo anh ta. Âu cũng là số mệnh, anh ta đã ra đi với đơn vị ngay khi mất nước.
Lo được chỗ tạm trú cho vợ con, tôi thở phào nhẹ nhõm, tuy rằng cuộc sống còn rất tạm bợ. Hàng ngày tôi lui tới những chỗ bà con và bạn bè để xem họ tìm đường di tản như thế nào. Bản thân tôi thì chịu, không hy vọng đi khỏi Saigon bằng máy bay hay tầu biển nên thấy yên tâm. Với tôi ván bài đã kết thúc. Khi biết rằng không còn cách gì xoay chuyển tình thế thì người ta không có gì phải bồn chồn. Tôi đi với nhà văn Duy Lam, người lãnh đạo một nhóm Việt-quốc trẻ tại miền Trung và cũng là một thành phần của tổ chức chính trị do Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thành lập, tới gặp Giáo sư Huy. Nhà ông ở con đường nhỏ gần ngã tư Cao Thắng, Hồng Thập Tự. Nhà có một cảnh sát gác ở cổng. Ông là nhân vật thứ hai sau Giáo sư Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh, đã bị cộng sản ám sát trước đó mấy năm, nên sau đó ông được chính quyền bảo vệ. Có một thời nghe đồn ông được Tổng thống Thiệu dự định mời làm Thủ Tướng. Khi bàn về tình hình tôi thấy ông rất lạc quan. Tôi nêu sự kiện trên đường di tản từ Đà Nẵng, qua các tỉnh, tôi thấy khi nào cơ quan CORDS còn thì tình hình còn yên tĩnh, khi nào CORDS đi thì tình hình rối loạn. Ông cho biết cứ yên tâm, người Mỹ đã hy sinh mấy chục ngàn binh sĩ và hàng trăm tỉ ở Việt Nam, hiện nay Việt nam lại đã tìm thấy dầu hỏa, nên người Mỹ không thể nào bỏ Việt Nam. Cùng lắm chúng ta rút xuống miền Tây, sau đó Mỹ sẽ đổ bộ vào giúp chúng ta phản công. Tôi biết là GS Huy rất thân cận với chính giới Mỹ, nhưng qua quan sát thực tế trên đường di tản tôi nghĩ GS Huy lần này đã lầm.
Tôi góp ý với một ông anh họ, luật sư, từng giữ chức Phụ tá Phó thủ tướng, rằng anh chị lúc nào cũng phải chuẩn bị tinh thần. Nếu không đi được cả gia đình thì bằng mọi giá anh phải ra đi một mình. Trong xóm lao động nơi tôi ở, mọi người sống yên bình, không ai bàn chuyện bỏ chạy. Họ đâu có gì để mất. Mà họ biết chạy đi đâu để có cuộc sống sướng hơn? Mấy quán cà phê trong xóm lúc nào cũng đông khách. Họ bàn chuyện chiến sự như chuyện ở một nơi nào xa lắc. Mấy người miền Nam còn hỏi nhau, “Hổng hiểu Việt cộng tàn ác ra sao mà mấy người Bắc kỳ di cư sợ quá há?” Tối 21/4, mọi người trong quán cà phê trong xóm chăm chú theo dõi bài diễn văn từ chức của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó ông chỉ trích mạnh mẽ Hoa Kỳ đã không chịu tiếp tục viện trợ cho miền Nam. Nhưng chẳng ai tỏ vẻ lo lắng việc Mỹ cắt viện trợ.
Ở Saigon chỉ có đường máy bay. Nhưng không phải ai cũng có thể tìm đường thoát bằng máy bay qua cơ quan DAO (Defense Attaché Office) của Hoa Kỳ. Không phải toàn bộ dân chúng Saigon xôn xao tìm đường di- tản như ở các tỉnh. Chỉ những ai có mối quan hệ với các cơ quan Hoa Kỳ, hay với sĩ quan không quân, hải quân VNCH mới nôn nóng tìm đường bỏ chạy. Ở các thư viện sinh viên học sinh vẫn bình thản học thi, sắp tới kỳ thi cuối năm rồi.
Tôi tương đối bình tâm hơn lúc ở các tỉnh vì không quen ai có thể giúp mình ra đi. Ngày ngày để vợ con ở yên tại căn nhà của ông bà cụ xa lạ người Bắc, tôi đi lang thang xem mọi người nôn nóng bỏ chạy. Trên đường Trương Minh Giảng tôi gặp một đơn vị Nhẩy dù kéo từ hướng ngoại ô vào. Tôi nể phục họ. Một toán mấy chiếc máy bay của Không quân VNCH bị bỏ lại ở miền Trung bị cộng sản sử dụng bay vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất càng làm cho mọi người thêm hoảng loạn. Đám đông chen lấn trước cánh cổng đóng chặt của tòa Đại Sứ Mỹ đường Thống Nhất, gần dinh Độc Lập. Mọi người công kênh nhau muốn trèo qua cổng sắt nhưng bị quân cảnh và lính Mỹ đẩy lui. Họ muốn vào tòa Đại sứ Mỹ để được lên sân thượng để trực thăng bốc ra hạm đội 7 đang đậu ngoài khơi. Bà chị họ tôi, vợ Tướng Trưởng, được Mỹ tới đón đi mấy ngày trước, ông chồng thì ở lại. Ngày 29, Tổng Thống Minh yêu cầu người Mỹ ra đi trong vòng 24 giờ, và lệnh giới nghiêm được ban hành. Ông luật sư anh họ tôi với người em rể là Bộ trưởng y tế, phải chạy tới một cao ốc, địa điểm trực thăng Mỹ tới bốc trên sân thượng vào giờ chót trước khi cánh cửa sắt hạ xuống. Chuyến trực thăng di tản cuối cùng của Mỹ! Sáng 29, Tướng Trưởng đang ngồi một mình coi bản đồ hành quân tại Bộ Tổng Tham Mưu (TTM). Ngoài cửa vẫn có Đại Úy Hòa Tùy viên. Thiếu tá Kim phi công và chiếc trực thăng hành quân dành cho ông vẫn đậu dưới sân chờ lệnh ông. Các vị tướng và sĩ quan cao cấp khác của Bộ TTM đã bỏ chạy hết. Bất ngờ Tướng Nguyễn Cao Kỳ đáp trực thăng xuống đi một vòng chẳng thấy ai, gặp Tướng Trưởng rủ đi cùng. Tướng Trưởng và sĩ quan tùy viên theo ra trực thăng của Tướng Kỳ.
Sáng 30-4-75, tầm 11 giờ, tôi nghe đài phát thanh phát từ mọi nhà vang đường phố lời Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi anh em binh sĩ buông súng đầu hàng…Có lẽ những người nôn nóng ra đi nhưng bị kẹt lại thì âu lo, nhưng tôi thở phào nhẹ nhõm… Tôi thấy nhiều người cũng vậy…Dân chúng tràn ra đường phố tìm đường rời Saigon về quê. Sự căng thẳng trong một tháng qua dường như vừa được giải tỏa. Vang trên làn sóng điện là tiếng của Trịnh Công Sơn hát bài Nối Vòng Tay Lớn. Dù sao anh cũng là một nhạc sĩ được thế hệ tôi mến mộ. Những ca khúc của anh thường được chúng tôi mang theo trong lúc hành quân vì khắc họa được cuộc sống bi-tráng của những người lính chiến chúng tôi. Nhưng sự xuất hiện của anh quá sớm, và quá hớn-hở với đối-thủ của chúng tôi đã khiến tôi hụt hẫng, cảm tưởng như bị một người bạn thân phản bội.
Nhưng thôi, chẳng còn gì để trách móc nữa. Mọi chuyện đã an bài. Khi đối phương đã tới vòng đai Saigon thì không còn gì để tiếp tục. Những chiến sĩ đang còn cầm súng thì có lý do để trách hành động đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh. Nhưng những người đã bỏ súng và bỏ chạy như tôi, với một nách vợ con đùm đề bên cạnh, lại không nơi tá túc v…v thì có thể có cái nhìn khác. Bởi thế đánh giá hành động của Tướng Dương Văn Minh vào thời điểm đó không phải dễ dàng.
Nguyễn Tường Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét