Gần 10 giờ đêm 2-3-2004, chị Lê Xuyên
điện thoại cho tôi thông báo tin anh vừa mất lúc 9 giờ 20, tức là cách
đó nửa giờ. Lời chị kèm theo rất chân tình:
- Tôi gọi cho anh trước khi gọi cho nhà đòn.
Tôi
hiểu ý chị và phải nói hiểu từ lâu mới đúng. Gia đình anh chị trong
hoàn cảnh sinh sống rất khó khăn chật vật, vì thế nên tôi đã dặn trước:
nếu có chuyện gì cần chị cứ gọi cho tôi. Tôi không tin vào tôi mà tin
vào tình yêu thương của bạn bè từ khắp nơi luôn sẵn sàng giúp đỡ Lê
Xuyên nên hứa ngay: Chị cứ lo mọi chuyện cho tang lễ của anh, còn chuyện
khác để anh em chúng tôi lo. Chị vui vẻ:
- Nếu thế tôi an tâm rồi.
Buông điện thoại, tôi hoàn toàn
không ngạc nhiên trước cái tin buồn này. Từ hai năm nay, Lê Xuyên nằm
một chỗ, có thể nói thẳng nằm đó chờ ngày "về với ông bà". Một năm trước
đây thôi, anh phải vào bệnh viện, chị cũng gọi cho tôi rồi đến nhà mang
theo cả giấy "nhập viện" và số tiền phải trả. Tôi cũng lại làm cái
nhiệm vụ thông báo cho một số anh em ở nước ngoài để kiếm tiền trả bệnh
viện. Không phải chỉ có riêng chúng tôi mà còn những người quen khác của
anh, những người bạn đồng hương, những người học cùng trường cùng lớp,
có cả những người không hề quen biết
cũng
xúm nhau vào chung lo. Hầu như ai cũng hiểu rằng ngày "ra đi" của anh
không xa. Nhưng may mắn, anh vẫn còn qua được vài mùa Xuân.
Những
lần sau này tôi đến thăm anh, anh nằm đó nhưng tỉnh táo, không nói
chuyện được song hỏi nhiều điều, anh vẫn nhớ, vẫn hiểu. Khi anh gật đầu,
thỉnh thoảng có được một nụ cười, đôi mắt ánh lên một niềm vui. Nhất là
khi tôi cố gợi lại một vài câu chuyện vớ vẩn từ hồi xa xưa chúng tôi
gặp nhau ở ngoài đường hoặc ở toà soạn một vài tờ báo.
Tính Cách Lê Xuyên:
Để
cho anh được sống lại với những kỷ niệm cũ, tôi kể lại một buổi sáng
sớm vào khoảng năm 1971-72, sau một đêm đánh chắn với vợ chồng ông chủ
báo Kịch Ảnh đường Cống Quỳnh, tôi lái xe về nhà. Qua đường Lê Lai, tôi
thấy Lê Xuyên cúi đầu đi trên hè phố. Tôi đậu xe sát lại, Lê Xuyên vẫn
chưa thèm nhận ra là xe của ai. Tôi bóp còi, lúc đó anh mới ngước lên
nhìn và toét miệng cười. Ít khi ông Lê Xuyên cười lắm. Tôi đẩy cửa xe,
thò đầu ra hỏi:
- Ăn gì chưa?
- Chưa gì hết trọi, có tiền đâu mà ăn.
- Lên đây, tôi đưa ông đi ăn sáng.
Leo lên xe,anh hỏi thẳng:
- Đêm qua được hay thua?
- Được.
- Nhà không còn một xu, tui để tiền trong túi cũng hết luôn.
Tôi
cười và hiểu cái sự "hết tiền trong túi" của anh dù mới lãnh lương. Móc
trong cốp xe, tôi chia cho anh một nửa số tiền được bạc đêm hôm qua và
dặn dò rất kỹ:
- Mang về toà soạn cất vào ngăn kéo để tiêu dần đấy.
- Ừ, tốt. Ông ăn sáng chưa, cho tôi đi với. Lâu rồi không được ăn đồ Tây.
Tôi cười:
- Ra Givral hay Brodard, ông thích chỗ nào.
- Đâu cũng được.
Chúng
tôi ra Givral, sáng sớm tinh mơ chỉ có hai bàn khách. Tôi gọi mì jambon
là món "đặc sản" ở đây còn Lê Xuyên gọi omelette jambon ngồi nhai bỏm
bẻm lấy làm thú vị lắm. Ăn xong tôi bảo ông có tiền rồi, lấy xe taxi về
toà soạn, tôi phải về nhà thay quần áo rồi còn phải vào sở chào cờ vì
hôm nay là thứ hai. Lê Xuyên cười hì hì:
-
Cả đời tao chưa biết chào cờ là cái gì. Tao chỉ chào ông chủ báo khi
lần đầu tiên đến làm. Ngô Quân cũng thế và Hồ Anh cũng thế.
Thỉnh
thoảng tôi đưa bài đến báo Thời Thế, đôi khi vào buổi trưa, tôi lại rủ
Lê Xuyên đi ăn trưa, hôm có tiền thì chui vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu Bát
Đạt. Có lần tôi rủ:
-
Chúng tớ có cái phòng thuê ở trên lầu ba để thỉnh thoảng chơi phé, lấy
tiền sâu gửi lại tay quản lý nên bất cứ lúc nào cần phòng là có ngay.
Ông có muốn nằm lại đây một buổi không?
Bản tính anh hiền lành nên hỏi lại:
- Nằm làm gì, tôi phải về làm việc chứ.
- Ông ngây thơ thật hay ngây thơ cụ, ông cứ lên với tôi là biết ngay "nằm làm gì". Ông muốn Tàu cũng có mà ta cũng có.
Dĩ
nhiên đến nước này thì ông bạn tôi phải hiểu, nhưng ông lắc đầu quầy
quậy như thằng con nít bị mẹ bắt lấy vợ sớm. Tôi đưa ông trở lại toà
soạn và xác nhận với anh em rằng "Lê Xuyên nó đứng đắn thật các ông ạ".
Một ông bạn tôi cãi: "Nó nhát chứ đứng đắn cái gì". Thôi thì nhát cũng
được, đứng đắn cũng được nhưng nó không giống tụi mình. Và một điều ai
cũng nhận thấy là chưa bao giờ thấy mặt Lê Xuyên ở bất cứ cái phòng trà
tiệm nhảy nào, ngay cả chỗ đông người anh cũng tránh. Tôi cứ lẩm cẩm
ngồi nhắc lại từng chuyện khiến anh thú lắm, đó là lúc anh được sống
thêm.
Một bí mật bây giờ mới tiết lộ:
Cũng
vào khoảng thời gian đó, tờ báo Thời Thế có một loạt bài điều tra phóng
sự về một vụ tham nhũng của một ông "tướng vùng". Ông tướng nhờ một đại
tá và một trung tá liên hệ với tôi để nhờ tôi can thiệp. Tôi chẳng biết
trắng đen ra sao, nhưng đã có lời nhờ và giải thích thì tôi làm. Tôi
gọi cho Lê Xuyên giải thích những gì tôi được nghe và đề nghị "thông
cảm" với phóng viên cho ngưng loạt bài đó kẻo làm mất uy tín của một
người chỉ huy vùng chiến thuật. Lê Xuyên nói ngay:
- Ông nói thì tôi nghe, nhưng để tôi thu xếp với anh em cho có đầu có đuôi.
Sau
đó tôi điện thoại cho ông chủ báo Hồ Anh, lúc đó tôi mới biết rằng đã
có một hai ông nghị sĩ dân biểu can thiệp, nhưng Lê Xuyên vẫn cứ tiếp
tục cho đăng loạt bài này. Ông Hồ Anh bảo tôi cứ nói chuyện với Lê
Xuyên, nếu anh ấy chịu thì không có gì trở ngại. Chỉ có thế thôi. Rất
bất ngờ, hôm sau tôi đọc được hàng chữ trên trang nhất: "Vì có người bạn
chúng tôi can thiệp nên chúng tôi thấy cần phải chấm dứt loạt phóng sự
này". Quả thật đó là điều khiến tôi hết sức cảm động và ngay lúc đó tôi
trở nên áy náy vì biết đâu đó là một sự thật mà công sức của anh phóng
viên trẻ đã bỏ ra bị tôi "kỳ đà cản mũi". Tôi gọi lại cho Lê Xuyên, anh
chỉ cười:
- Thông cảm với phóng viên rồi nó bảo ngưng cũng được, viết thế đủ rồi.
Tôi rủ anh đi ăn trưa, anh nói:
-
Tôi vừa ngưng phóng sự mà đi ăn với ông thì khác gì đi ăn hối lộ. Thôi
hôm nào ông được bạc mình lại đi ăn đồ Tây. Hôm nay tôi bận quá ông ạ.
Lê
Xuyên cúp máy và tôi thì cứ ân hận, chẳng hiểu vì sao. Chuyện này còn
có nhiều nhân chứng còn sống ở đâu đó, may ra họ còn nhớ. Tôi thì chẳng
bao giờ quên.
Bỏ đi Tám!
Hơn
mười năm sau, khi tôi ở trại cải tạo ra, Thanh Thương Hoàng dẫn tôi đến
thăm Lê Xuyên. Anh ngồi bán thuốc lá lẻ ở một góc phố. Chiếc quầy thuốc
bé tẹo nhưng cũng đủ che hết tấm thân gầy gò của anh. Chúng tôi nhìn
nhau và cùng cảm thông rất sâu sắc cái thân phận mình lúc này. Anh chớp
mau mắt nói như để an ủi hơn mười hai năm tù của tôi:
- Trông ông vẫn cứ phong độ như ngày nào.
Tôi thẳng thừng thương bạn:
- Còn ông, trông chán bỏ mẹ... Chỉ muốn khóc!
Hai
bàn tay bạn tôi run lên, lật bật đút chiếc chìa khoá vào ngăn tủ kính
để mấy gói ba số năm bán lẻ (hồi đó ba số năm quý lắm):
- Hút thuốc lá không?
- Không, tớ hút thuốc lào quen rồi, về đây hút thứ nặng hơn mới đủ đô.
Thanh
Thương Hoàng rủ sang bên con hẻm phía trước ăn sáng. Đó là con hẻm lối
đi vào một ngôi chùa hay ngôi đình gì đó. Không có hủ tíu, Lê Xuyên phải
chạy đi gọi ở một nơi nào quen bán chịu cho anh ở gần đó. Lê Xuyên trở
lại với con người thật của anh. Vẫn hiền lành, cười tủm và chân quê.
Phải nhìn thấy cái cười tủm của anh mới biết tại sao anh viết về những
cuộc tình của những đôi trai gái đồng ruộng miền Nam hay đến như thế,
láu cá đến như thế. Tôi nhủ thầm: Thằng cha này tâm ngẩm tầm ngầm mà ghê
lắm đấy. Nó không nói mà chỉ viết nên nó viết được nhiều hơn mình. Chỉ
có nó mới viết được những "dòng chảy ngầm" của trai gái thôn quê miền
Nam thật đến thế và hấp dẫn đến thế. Lê Xuyên khác với một số những cây
bút hoàn toàn Nam Bộ như ông Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam ở chính cái
"thật" của anh, không màu mè, không lý luận, không làm một cái gì như
nghiên cứu sưu tầm về phong tục tập quán dưới hình thức này hoặc dáng vẻ
khác. Từng động tác, từng thái độ, từng lối ứng xử trong nhân vật của
anh cứ như con người thật lồ lộ đang ở trước mặt chúng ta vậy.
Trước
mặt tôi, ông già Lê Xuyên vẫn còn cái hóm hỉnh riêng, nhưng bây giờ thì
như anh nói: "đếch viết nữa". Tôi hỏi không viết được hay không thích?
Câu trả lời của anh gọn lỏn: "bỏ đi tám". Tôi không thể hiểu nỗi ba chữ
"bỏ đi Tám" mà anh dùng. Có một nỗi chua chát nào đó trong cái tâm sự
thật của anh? Đến cái chứng minh nhân dân anh cũng không muốn làm nên
không có hộ khẩu, cứ như ở lậu, công dân lậu.
Thái độ đó có đồng nghĩa với sự "bỏ đi Tám" của anh không? Chỉ có anh mới hiểu và bây giờ anh mang theo.
Cách
đây vài năm, tôi có viết về Lê Xuyên và may mắn nhận được sự giúp đỡ
thiết thực của khá nhiều bạn bè. Trong đó có một vài tờ báo muốn đăng
lại những truyện dài của anh, tôi hỏi, anh chỉ lắc đầu: "chẳng còn cuốn
nào" và cả chị ấy cũng không kiếm được cuốn nào cả.
Ba
năm sau cùng, anh không còn sức để bán thuốc lá lẻ nữa. Thỉnh thoảng
tôi và Nguyễn Thuỵ Long kéo đến thăm, cố dìu anh ra quán cà phê cuối ngõ
ngồi lai rai tâm sự vặt. Tôi vẫn cho rằng chỉ có lúc đó Lê Xuyên mới
được sống thật. Hai năm sau này dù có cố lôi anh đi cũng không nổi nữa
rồi. Anh như cái bóng trong góc tối của gian phòng chật chội vây quanh
bởi hàng trăm thứ lỉnh kỉnh nào bàn ghế, chai lọ, giường tủ. Chỉ có cô
gái út săn sóc cho anh, vợ và các con lớn của anh vất vả với công việc
hàng ngày rất ít thì giờ trông nom cho bố. Cái chết đến từ từ theo từng
ngày giờ buồn tênh, dường như anh chán cả cái sống cái chết, không thèm
chú ý đến nó nữa.
Khi
tôi đến với anh lần cuối là lúc các con anh đang tắm rửa, thay quần áo
cho anh trước khi nhập quan. Cái thân hình gầy gò trần trụi của anh phơi
ra, tất cả chỉ còn có thế. Tôi chuyển ngay cho chị số tiền mà tôi mới
gửi e-mail tối hôm qua thông tin về sự ra đi của anh, nhanh chóng được
đáp ứng. Các bạn ở Virginia, San Jose, Santa Ana yêu cầu tôi chuyển ngay
khoảng 1.000 Mỹ kim đến lo tang lễ cho anh. Một người bạn đưa ngay đến 2
triệu và mang đến vòng hoa đầu tiên của bạn bè Sài Gòn. Hôm sau chị
khoe với bà con đến phúng:
-
Có bạn bè làm chỗ dựa nên tôi mạnh tay làm đủ thứ việc cho anh ấy. Mạnh
gì gạo bạo vì tiền, có phải không các bác? Không có bạn bè, tôi chẳng
còn biết xoay dở ra sao.
Tôi nói với chị:
- Chắc sẽ còn nữa, có một số anh em chưa gửi kịp, xin chị an tâm đi tiếp con đường ai cũng phải đi.
Buổi
chiều ngày 5-3, đúng hai giờ lễ động quan bắt đầu, giữa trời nắng chang
chang, chúng tôi đưa anh đến Bình Hưng Hoà. Có rất nhiều người bên hè
phố lặng lẽ tiễn đưa anh, không ồn ào như những đám tang của những nhà
nghệ sĩ mà ở đây người ta cho rằng đó là những "nhà nghệ sĩ lớn", nhưng
những con người thầm lặng ấy dõi theo anh với tất cả tấm lòng mình. Họ
không nói gì, không có kèn saxo như trong đám tang Trịnh Công Sơn, không
có giọt nước mắt dài ngắn thở than của những danh ca nghệ sĩ, không có
cả những bài "điếu văn tưởng niệm" lâm ly bi đát, nhưng đầy ắp những
tình yêu thương từ xa xưa đọng lại, từ bốn phương lãng đãng bay về phủ
kín khung trời Sài Gòn. Thế là đủ, nó vượt lên trên tất cả.
Văn Quang
*
Mời đọc qua Ebooks các Sách của Trần Yên Hòa đã xuất bản:
Xin click vào link sau:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét