Thứ Tư, 4 tháng 5, 2022

Phần số - Phùng Hi

 Bí ẩn của 'Số mệnh' - Tân Sinh

 

Cha tôi kể rằng ông chỉ học đến lớp Ba trường làng, khi tôi cũng đang học lớp Ba tại trường tiểu học Hòa Do năm 1973. Cha đọc bài thơ "Trường học làng tôi" của Thanh Tịnh, bài thơ dài, dễ nhớ, khổ cuối rất buồn:

Năm nay thôi học ở trường quê

Nhớ lại lòng tôi cảm nặng nề

Những buổi thu sương buồn ảm đạm

Trống trường vang dội phía sau đê.

Cha đi lính, bị thương ở mắt cá chân, giải ngũ năm 1969. Sau đó ông theo học khóa y tá ở Quân y viện Nha Trang rồi ra dân sự làm "y tá liên gia" khu phố Mỹ Ca, Cam Ranh. Ông nổi tiếng với phác đồ điều trị bịnh lậu cho lính và gái bán hoa, thứ bịnh hoành hành một thời ở miền Nam Việt Nam. Tôi nhớ mẹ từng giận dữ khi cha ấn vô mông một thiếu phụ khá lâu để dò chỗ tiêm thuốc. Ngoài nghề y tá, cha còn kiêm thêm công việc đánh máy thuê.

<!>

Chỉ với lớp Ba, cha tôi đọc sách y học, sách về bịnh thường thức, nhất là sách của bác sĩ Lương Phán và Nguyễn Thị Lợi, bác sĩ viết sách trị bịnh hay như sách văn chương.

Tôi lên lớp Năm, cha vẫn theo dõi và chỉ tôi làm toán, đặc biệt mấy loại toán trồng cây, nước chảy vào bể, động tử thuận chiều – nghịch chiều, toán khó nhưng thực tiễn. Cha cùng nhóm thương phế binh ở Cam Ranh mở trường tiểu học tư thục và luôn cằn nhằn với chánh quyền Đệ nhị Việt Nam Cộng hòa.

Chỉ với lớp Ba, cha tôi rành văn chương Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỷ thứ 19. Ông thuộc làu Gia huấn ca của Nguyễn Trãi và rất thích thơ "ngẫm thế sự" của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ. Với sách học làm người, sách khảo cứu, cha đọc nhiều hai tác gia Nguyễn Hiến Lê và Nguyễn Duy Cần.

Cha làm thêm cho tôi một bản thế vì giấy khai sinh dự phòng, nhỏ tuổi hơn, để sau này dễ trốn lính, tức ông nghĩ cuộc chiến còn dài chứ không kết thúc đột ngột vào năm 1975. Dường như với lớp Ba, ngành giáo dục thời trước, đã "sửa soạn" cho người học ra đời sinh sống và tự học thêm lên.

***

Sau năm 1975, cha đưa gia đình về quê ở làng Long Tường, làng quê điển hình của khu vực Nam Trung bộ. Làng quê đủ núi đủ sông, trải rộng mấy cánh đồng, đủ cả đói nghèo và cơ cực của thời bao cấp, thời cấm chợ ngăn sông.

Dù thiếu ăn, cực khổ trăm điều, nhưng cha tự an ủi rằng gia đình mình không phải đi kinh tế mới như toàn bộ dân trên trục đường qua bán đảo Cam Ranh. "Kinh tế mới", tức phát hoang rừng núi để trồng sắn bắp, cụm từ gây khiếp hãi một thời người dân các đô thị miền Nam.

Mấy năm sau, tôi tiếp tục học lên cao. Tôi nhận ra cái làng Long Tường này, chừng mấy trăm nóc nhà, khinh rẻ gia đình tôi mà không phải lý do cha thuộc diện "ngụy quân, ngụy quyền". Vậy thì là gì?

Thử một tình huống như vầy: Tôi mang cặp đi học. Một ông trong làng chặn tôi lại, khi tôi đang cúi người chào ổng, hỏi có vẻ khinh khi:

- Mày con thằng Ba phải không? (Cha tôi tên Ba).

Tôi chưa trả lời thì ông đứng kế bên nói:

- Đúng đấy, nó con thằng Ba ở đợ cho ông Năm Chương đó.

Tôi về hỏi cha, cha nói: "Ờ, quãng cuối những năm 1940s cha ở đợ, chận (chăn) trâu cho ông Năm. Hồi đó cả làng đi ở đợ chứ riêng gì cha. Ông Năm là anh họ bà nội con, cha gọi ổng bằng cậu".

Đang bữa cơm, ghế khoai nhiều hơn cơm, nhà tôi đang quây quần, cha kể thêm chuyện đói ăn: "Buổi sáng ở nhà ông Năm khi đó người ở đợ chỉ được ăn hai chén cơm. Chén cơm thứ hai cha lén chan nhiều mắm cho mặn để lấy cớ xin thêm cơm, thành ra ăn được gần ba chén".

Từ đó gặp người lớn trong làng, tôi không chào hỏi nữa. Thấy ai, tôi cũng ghét. Thấy tôi, ai cũng không ưa. Có người méc cha, thằng con mày thấy tao nó lõ con mắt ngó không thưa gửi gì hết. Ơ, tôi mắt sâu một mí, sao "lõ con mắt" được hả trời?

Cha tiếp tục hành nghề y tá. Mấy ông trong làng xưa nhảy núi chiến đấu, giờ có chức vụ trong thôn, hô hoán: "Thằng Ba ở đợ, có thấy học hành ngày nào đâu mà giờ dám làm y tá". Vậy là xong, miếng cơm bị chặn, cha không làm y tá được nữa.

Sau giải phóng, qua những đợt đi khai hoang, làm nông giang, sốt rét kinh hoàng làng trên xóm dưới. Bệnh viện chỉ có ký ninh, xuyên tâm liên, uống hoài không hết, da xanh như tàu lá chuối. Người bịnh tới cha tôi, chữa hết ngay bằng một liều duy nhất, uống một lúc ba viên fansidar của Nhật hoặc Mỹ. Thuốc đó còn tồn ở các pharmacy, đang bị cấm kinh doanh nên tuồn ra chợ trời.

Đúng lúc trong làng không ai đủ sức "tính cộng" để làm thủ kho hợp tác xã, cha được ông chủ nhiệm là chỗ bạn học xưa mời "nhận chức". Lúa nhập kho, đông đảo người, mỗi mã cân trên ba tạ, cân lia lịa. Cha vừa gạt đòn cân, vừa cộng quá nhanh làm mấy ông trong ban kiểm soát, mỗi ông một sổ, cộng theo không kịp, cứ nửa chừng là bỏ theo dõi. Cuối buổi cân, mấy ổng làm bộ hỏi cha để đối chiếu: "Ba, mày cộng nhiêu?". Cha nói bao nhiêu mấy ổng ghi sổ bấy nhiêu, cha ăn gian quá trời luôn. Kho lúc nào cũng dư hàng chục tấn lúa, nếu "điều nghiên" trót lọt thì kiếm chác chút ít, sau khi đã chia cho các ban bệ.

Nhờ cái vụ cha làm thủ kho nhà tôi bớt khổ, bớt khổ thôi chứ nghèo thì định số rồi. Người trong làng vẫn không ngừng thắc mắc: "Thằng Ba nó học hồi nào mà giỏi vậy ta?".

Tôi thi đậu sư phạm Qui Nhơn, cha tôi tuổi đã bốn mươi. Vậy mà cứ nói đến cha, người làng gọi cha là thằng Ba, thằng Ba ở đợ. Khi tôi về dạy toán cấp ba, giờ gọi là trung học phổ thông, tại một trường địa phương, nhiều người làng có con cháu học trò tôi, họ uất ức ra mặt. Họ kêu tôi bằng mày và gọi tôi bằng thằng. Ngồi uống chén rượu với họ, vài lần bị mấy người dựa hơi đâu đó chỉ mặt tôi: "Mày có tin là tao cho mày nghỉ dạy không?". Lúc đi học, nhiều người hăm he cho tôi nghỉ, tôi nghe quen rồi.

Cái môn toán cấp ba khó đến độ cả dòng họ xúm vô giải cũng không xong mà con thằng Ba ở đợ thì đang dạy con cháu mình. Nó còn tranh thủ mắng con cháu mình học ngu như bò thì làm sao chịu nổi đây, uất ức quá trời ơi. Họ mường tượng tôi mắng chửi con họ, chứ tôi chưa làm điều ấy bao giờ.

***

Cha với mấy người tôi gọi bằng bác, con ông Năm Chương, là anh em cô cậu. Cha rất cung kính mấy ông bác, họ vừa vai anh, vừa "cậu chủ" thời cha ở đợ. Mấy ông bác được ông Năm cho đi học xa nhà, vừa học vừa trốn lính. Ông học cao nhất đến đệ tam (lớp 10), ông học thấp nhất đến đệ lục (lớp 7). Ông nào cũng lưu ban ba lần bảy lượt rồi ngưng ngang. Có lần cha nói: "Mấy ổng (tức mấy ông tôi gọi bác) hồi đó chỉ học tính lớp, đánh đu, tiêu cho hết tiền ông Năm chứ học hành gì".

Ông bác nhỏ nhứt, con bà vợ hai Năm Chương, học lớp 7 lúc tôi học lớp 5, ngay sát thời điểm trước thống nhất miền Nam, năm 1975. Ổng cộng trừ nhân chia gì đó trớt quớt, tôi lén nhìn, tôi bèn chỉ cho ổng. Hôm sau thấy tôi ngoài ngõ, ông Năm kêu vô nói: "Thằng Phút, mày coi còn bài nào làm không được biểu thằng Hùng nó chỉ luôn cho chớ mai cha con nó vô lại Cam Ranh rồi". Ui trời, lớp 5 chỉ toán lớp 7.

Ông bác lớn hơn chút, tên Giờ, học tới đệ tứ (lớp 9). Sau năm 1975 bác mở tiệm sửa xe đạp. Khách đến vá xe hay sửa đúng một cái gì đó, ông nói được ngay số tiền khách phải trả. Nếu khách thay lốp xe, thay sên líp, cân niềng, thay tăm v.v… Khách nói tính tiền đi anh Giờ là ổng đứng sững trân. Khách nhắc nhiều lần ổng vẫn không nói ra được số tiền. Bà vợ từ dưới bếp té tát chạy lên tính dùm.

Ông bác lớn nữa, tên Ngày, học tới đệ tam, ông này cùng tuổi cha tôi. Có lần bác Ngày muốn vay tiền nuôi heo, số tiền vay không lớn nhưng phải chiết ra, cất chuồng heo bao nhiêu, mua heo giống bao nhiêu, thức ăn bao nhiêu, phương án trả nợ, rồi đơn trương thưa gửi các cấp. Bác Ngày nhờ cha tôi làm từ đầu đến cuối, nộp đơn, vay được tiền của hợp tác xã. Trời ơi, ông lớp 10 nhờ ông lớp 3 viết đơn vay tiền?

Ông bác lớn nhứt, tên Sáng, cũng học hết đệ tam. Ông sanh một bầy con, đẹp trai đẹp gái. Chưa bao giờ sự học ở cấp phổ thông dễ dàng như sau ngày giải phóng, vậy mà bầy con bác Sáng chưa ai có nổi bằng tốt nghiệp cấp ba. Mấy người con cứ đến ngày thi tốt nghiệp hằng năm làm hồ sơ dự thi, thi mãi không đậu, thi theo hệ bổ túc cũng không đậu. Riêng gia đình nhà bác Sáng ở thành phố Tuy Hòa, cả gia đình đều buôn bán ở chợ. Vợ bác Sáng cặp nách cái giỏ lát, đi từ đầu chợ đến cuối chợ, cho vay nóng và thu tiền chơi hụi, vậy là giàu lút mái.

Kỳ lạ, bốn ông bác Sáng, Ngày, Giờ, Phút học hành không nên hồn ấy nhưng ông nào cũng giàu có, của ăn của để, của xây nhà to. Ông nào cũng có bà vợ cao ráo – đẹp gái – chịu thương – chịu khó, hỗ trợ chồng hết mức có thể. Đàn con sanh ra không thấy đứa nào học hành "coi được", phần lớn đều học trò tôi nên tôi biết, nhưng không ai đói nghèo. Nhìn đàn con họ ra đời làm ăn, ai cũng lanh lưa, chụp giựt, giàu nhanh trông thấy: người buôn gà đá, người chạy xe tải, người bán tạp hóa, người buôn hàng chuyến qua tận bên Trung Quốc. Trong làng, họ giàu có không thua một ai.

Bác Sáng về quê xây từ đường Phạm gia thiệt to. Tiếc không có cái để ghi vô gia phả, cả đường học vấn lẫn công danh chốn quan trường. Người Việt thích khoe danh chứ giàu thì ai cũng thấy rồi.

Cha tôi thì sao? Nghèo hết kiếp, dù ông có không ít cơ hội làm giàu, đó là lựa chọn của ông. Tôi thì sao? Làm tay giáo viên lo miếng ăn cho vợ con thiếu trước hụt sau, đói xanh xương cả nhà, cái này thì tôi không có lựa chọn nào khác. Không lẽ bỏ nghề dạy học để đi buôn, tôi làm gì đủ gan, cái nghề bị chính quyền khinh miệt gọi "con buôn" ấy. Còn con của tôi thì sao? Chúng học hành giỏi giang, đứa ra làm công ty nọ kia, đứa làm bác sĩ, lại cũng chỉ đủ chi tiêu trong chật vật lo toan.

So với người trong làng, gia đình tôi "tinh hoa" đó chớ, "trí thức" đó chớ. Tính từ cái thời cha tôi ở đợ đến nay, hơn tám mươi năm, ba thế hệ giỏi giang của nhà tôi, không giỏi hơn ai chứ giỏi nhất làng là cái chắc, vẫn không "cất cái đầu" lên nổi. Học để "đổi đời" là chưa đủ, nó cần một vài thứ nữa bổ sung.

Xem ra dân tình chỉ trọng vật chất được sở hữu chứ không trọng cái có trong đầu, còn tìm cách khinh ghét, tâu báo với chính quyền, cái trong đầu người ta.

***

Người cố công học hành cứ luôn thấy mình hèn kém vì nghèo và đổ thừa cho phần số đã định. Chính quyền cần hiểu rằng, kẻ thực học luôn có lòng tự trọng, khó cám dỗ bởi bổng lộc và vô tư cống hiến. Chỉ hiểu dùm nhiêu đó để ứng xử cho đẹp, trả lương tương xứng, thì thang giá trị đời sống đã không bị đảo lộn, nháo nhào như hôm nay.

Con gái tôi làm ở bệnh viện tỉnh Phú Yên, tổng thu nhập năm triệu đồng trên tháng, không đủ cho cái gọi là "tái sản xuất". Nó yêu chàng trai vốn gốc ở làng, con một gia đình giàu xổi. Cái thằng đó hồi học toán tôi dạy, dở thậm tệ, giờ nó làm trưởng phòng tổ chức Sở Công Thương, tức quan to đùng. Cha nó học cùng tôi tới lớp 8 rồi nghỉ vì "đuối sức", ông ấy chưa bao giờ làm bài tính chia đúng đáp số. Dòng họ nhà chàng rể tương lai không ai dám hó hé so đo với con gái tôi đâu, nó không khinh ngược dốt nát là may rồi, nhưng quyền uy chức tước làm họ tự tin bội phần và còn xầm xì: "Ông nội con bé bác sĩ trước ở đợ cho ông Năm Chương đó".

Hôm đám cưới đàng trai tới rước dâu, xe hơi choán hết lối đi. Đến cái đoạn trao nhẫn, thằng rể mở cái hộp màu đỏ ra thấy trống không, nó run lẩy bẩy, bảo: "Con quên chưa bỏ đôi nhẫn vô, chúng trong túi áo con để ở nhà". Trời đang nóng mà khoác bộ vét, tôi tháo mồ hôi đầm đìa, nói: "Sao con quên kỳ cục vậy, giờ làm sao?". Tôi định đợi vài giây rồi sẽ bảo thôi, bỏ qua khâu trao nhẫn. Nhưng "cây muốn yên mà gió gây sự", ông ngoại thằng rể, cái ông ngày xưa chận tôi lại hỏi có phải con thằng Ba ở đợ nhà Năm Chương, lên tiếng: "Tính nó hay quên là may đó, chứ nó nhớ chuyện ông nội cháu dâu ở đợ có mà dễ cưới".

Cha tôi già nua ngồi đó, nín lặng, không biểu cảm như người cõi trên. Tôi sẵn trong người vài ly rượu, dằn hai tay xuống mặt bàn cái rầm rồi chỉ tay ra cửa, hét lớn: "Các ông biến mau khỏi nhà tôi, mẹ kiếp các ông”.

Cái rạp cưới rung chuyển như hứng một cơn gió lốc. Người đằng trai can ngăn đằng trai, người đằng gái can ngăn đằng gái, huyên náo cả lên, vô phương vãn hồi. Bộ tưởng tôi thầy giáo hiền lành dễ ăn hiếp à? Người ăn cưới, người xem cưới, bu vô mỗi lúc một đông. Thiệt chẳng ra làm sao cả.

Sau mấy ngày tôi còn giận run cha già mắc dịch, kẻ chưa ra khỏi lũy tre làng ngày nào nhưng rất quái, thì bảo sao lúc đó nhẫn nhịn cho qua được. Bà con được phen bàn tán rần rần làng trên xóm dưới, nửa nói tôi đúng, nửa nói tôi ngu, thầy giáo mà hổng khôn.

Nếu cao cơ, hôm đó tôi bảo: "Thôi đi, chuyện ở đợ hay ho gì chú cứ nhắc miết" thì đám cưới chắc đến được hồi kết. Nhưng trước sau gì con gái tôi cũng lãnh quả đắng với gia đình đó khi gạo đã nấu thành cơm.

Con gái nói: "Cũng không báu gì, con gái cha còn có giá lắm đó, con sẽ kiếm chàng rể giống cha”. Nó nói rồi cười tươi nhưng tôi khó yên lòng với miệng đời thị phi sắp tới.

 

Phùng Hi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

MIẾNG TRẦU CUA MẸ TÔI. - Trần Thế Phong

                                       Mẹ tôi ăn trầu từ năm mười sáu tuổi. Mùa hè miền trung những đêm trời trong trăng sáng, mấy mẹ co...